Bản án 46/2021/HSST ngày 04/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 46/2021/HSST NGÀY 04/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 04 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 47/2021/HSST ngày 22 tháng 4 năm 2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2021/QĐXXST – HS ngày 23 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Lò Văn B; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1997 tại: Huyện Sốp cộp, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản T L, xã D C, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lò Văn C, sinh năm: 1977 và bà Lò Thị K, sinh năm: 1975; bị cáo chưa có vợ ; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/01/2021 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Sốp Cộp, cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi liên quan đến vụ án: Ông Lò Văn C; sinh năm: 1977; nghề nghiệp: Trồng trọt; trú tại: Bản T L, xã D C, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 23 giờ 00 phút ngày 13/01/2021, tại khu vực bản Phổng, xã Nậm Lạnh, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, tổ công tác Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La trong quá trình làm nhiệm vụ đã phát hiện bắt quả tang đối tượng Lò Văn B (Sinh năm: 1997, trú tại: Bản T L, xã D C, huyện Sốp Cộp) về hành vi cất dấu trái phép chất ma túy. Vật chứng gồm:

- Thu giữ trong lòng bàn tay trái của Lò Văn B 01 gói ni lon màu trắng bên trong có chứa 10 viên nén đồng dạng hình trụ tròn màu hồng (Nghi là ma túy tổng hợp);

- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Wave RSX, biển kiểm soát:

26F1 - 116.62.

Vào hồi 09 giờ ngày 15/01/2021 tại cơ quan Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La đã tiến hành mở niêm phong cân tịnh số vật chứng là 10 viên nén đồng dạng hình trụ tròn màu hồng thu giữ của đối tượng Lò Văn B, có khối lượng 1,07 gam. Lấy toàn bộ 10 viên nén khối lượng 1,07 gam ký hiệu B làm mẫu gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số: 352 ngày 18/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: "Mẫu gửi giám định ký hiệu B là ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 1,07 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 1,07 gam; loại Methamphetamine".

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, bị can Lò Văn B đã khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 13/01/2021, Lò Văn B một mình điều khiển xe mô tô BKS: 26F1 - 116.62 từ nhà ở bản T L, xã D C, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La đến khu Huổi Mẹt, thuộc bản Mường Và, xã Mường Và, huyện Sốp Cộp để tìm mua ma túy sử dụng. Khi đến khu vực Huổi Mẹt thuộc bản Mường Và thì Biên gặp và mua được của một người đàn ông dân tộc Lào không quen biết 11 viên nén màu hồng được gói bằng mảnh ni lon màu trắng với giá 500.000 đồng. Sau khi mua được ma túy thì Biên tìm chỗ vắng người lấy ra 01 viên sử dụng, số còn lại 10 viên thì B gói lại cầm trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe mô tô về nhà. Trên đường về qua khu vực bản Phổng, xã Nậm Lạnh, huyện Sốp Cộp, thì bị tổ công tác Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La phát hiện bắt quả tang cùng số vật chứng là 10 viên ma túy như đã nêu ở trên.

Tại bản Cáo trạng số: 25/CT - VKS ngày 22/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, đề nghị truy tố bị can Lò Văn B về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, giữ quan điểm truy tố bị cáo Lò Văn B, với tội danh và điều khoản luật áp dụng như trên.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Lò Văn B phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý và xử phạt bị cáo mức án từ 15 đến 18 tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự;

- Tuyên tịch thu tiêu huỷ số vật chứng là 0,71 gam Methamphetamine là số còn lại không sử dụng đến trong quá trình giám định.

- Tuyên trả lại cho người có quyền lợi liên quan Lò Văn C chiếc xe mô tô BKS: 26F1 - 116.62. Do sau khi bị cáo mượn xe tự ý sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy ông C không biết.

Về án phí: Đề nghị áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

- Miễn cho bị cáo không phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa bị cáo có ý kiến: Thừa nhận ngày 13/01/2021 đã bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép 1,07 gam Methamphetamine để sử dụng cho bản thân. Nay bị cáo đã biết tội đề nghị Hội đồng xét xử xem xét việc bị cáo phạm tội lần đầu, thành khẩn khai báo mà giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và người có quyền lợi liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về nội dung: Ngày 13/01/2021, bị cáo Lò Văn B (Có căn cước lý lịch như trên) đã bị bắt quả tang khi đang tàng trữ trái phép chất ma tuý (1,07 gam Methamphetamine) với mục đích sử dụng cho bản thân. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự để biết rõ việc mua, tàng trữ trái phép chất ma túy với bất cứ mục đích gì cũng là trái pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm thỏa mãn cơn nghiện. Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với đặc điểm vật chứng thu giữ; kết luận giám định đối với số vật chứng là ma túy; và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở đó đã đủ căn cứ kết luận bị cáo Lò Văn B đã phạm vào tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tại Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“ 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine,Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.".

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi tội phạm bị cáo thực hiện đã xâm phạm đến lĩnh vực độc quyền thống nhất quyền quản lý của nhà nước về các chất ma tuý. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý nhằm sử dụng cho bản thân của bị cáo là hành vi tiếp tay cho loại tội phạm khác như mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma tuý trong xã hội gia tăng, gây mất trật tự an ninh ở địa phương đặc biệt là tệ nạn sử dụng, nghiện hút chất ma túy ngày càng phức tạp đối với một bộ phận thanh niên trong xã hội hiện nay. Tội phạm bị cáo thực hiện thuộc trường hợp nghiêm trọng, do đó cần áp dụng một hình phạt nghiêm khắc quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự có mức phạt tù từ 01 năm đến 05 năm, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian tương xứng với tích chất mức độ hành vi phạm tội, nhằm trừng trị, răn đe, giáo dục và cải tạo bị cáo thành người công dân có ý thức tuân thủ pháp luật.

[4] Tình tiết tăng nặng: Không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ: Xét quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai nhận tội, nên được xem xét, áp dụng là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

[7] Đối với hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Căn cứ vào kết quả xác minh xác định bị cáo không có tài sản để thi hành. Do vậy Hội đồng xét xử thống nhất quyết định không áp dụng.

[8] Xử lý vật chứng:

- Đối với 0,71 gam Methamphetamine là số không sử dụng đến trong quá trình giám định là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo đồng thời là vật nhà nước cấm lưu hành. Cần áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; để tuyên tịch thu tiêu hủy cùng với vật chứng liên quan là 01 mảnh ni lon màu trắng.

- Đối với vật chứng là chiếc xe mô tô BKS: 26F1 - 116.62. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa xác định: Chiếc xe thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông Lò Văn C (Bố bị cáo) và việc bị cáo sau khi mượn xe tự ý sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy, ông C không biết, không có lỗi. Do vậy cần áp dụng điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; để tuyên trả lại chiếc xe nêu trên cho ông C.

[9] Đối với nguồn gốc ma túy bị bắt giữ, theo bị cáo khai do mua của 01 người đàn ông dân tộc Lào không quen biết ở khu vực Huổi Mẹt, thuộc bản Mường Và, xã Mường Và, huyện Sốp Cộp ngày 13/01/2021. Quá trình điều tra do bị cáo không cung cấp được tên, tuổi và đặc điểm nhận dạng cụ thể của đối tượng. Do vậy không có cơ sở để điều tra làm rõ.

[10] Bị cáo là đồng bào dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nên được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm, theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

[11] Bị cáo và người có quyền lợi liên quan được quyền kháng cáo bản án, theo quy định tại các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Lò Văn B phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn B 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 14/01/2021 (Ngày tạm giữ bị cáo).

Căn cứ khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tiếp tục tạm giam bị cáo Lò Văn B trong hạn 45 (Bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án, để đảm bảo biện pháp thi hành án phạt tù.

2. Xử lý vật chứng:

Căn cứ điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự;

- Tuyên tịch thu tiêu huỷ:

+ 01 phong bì thư của Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, đã được niêm phong dán kín bằng giấy dán niêm phong, một mặt phong bì ghi: " Vật chứng vụ: Lò Văn B - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 13/01/2021; bên trong phong bì có chứa 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh giấy ni lon màu trắng".

+ 01 phong bì thư của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, đã được niêm phong dán kín. Mặt trước phong bì ghi: "CÔNG AN TỈNH SƠN LA, PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, PHONG BÌ NIÊM PHONG. Vật chứng vụ: Lò Văn B - Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 13/01/2021, tại xã Nậm Lạnh, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. Niêm phong hối 08 giờ 05 phút, ngày 21 tháng 01 năm 2021. Tại Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La. Gồm có: Phong bì niêm phong mẫu giám định + 01 (Một) túi ni lon màu trắng chứa chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định hý hiệu B, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,71 gam" (Theo Kết luận giám định số 352 ngày 18/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La thì chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu B, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,71 gam là ma túy, loại Methamphetamine).

- Tuyên trả lại cho người có quyền lợi liên quan là ông Lò Văn C: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Wave RSX, màu sơn đen trắng, số khung: 039095, số máy: 0533612, biển kiểm soát 26F1 - 116.62.

3. Án phí:

Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

- Miễn cho bị cáo không phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo:

Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Báo cho bị cáo và người có quyền lợi liên quan đến vụ án là ông Lò Văn C biết quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2021/HSST ngày 04/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:46/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về