Bản án 46/2021/HS-ST ngày 02/02/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 46/2021/HS-ST NGÀY 02/02/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 461/2020/TLST-HS ngày 30 tháng 12 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2021/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Đình T ( tên gọi khác: C); Sinh ngày 30 tháng 4 năm 1990; Tại: tỉnh Đắk Lắk;

Nơi cư trú: Đường Y, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Đình P và bà Nguyễn Thị N, bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: 03 tiền án. Tại Bản án số 359/2015/HSST ngày 19/11/2015, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, xử phạt 09 tháng tù, về tội: Trộm cắp tài sản. Ngày 10/5/2016, chấp hành xong hình phạt tù; tại Bản án số 228/2017/HSST ngày 28/9/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, xử phạt 01 năm tù, về tội: Trộm cắp tài sản. Ngày 06/9/2018, chấp hành xong hình phạt tù; tại Bản án số 58/2019/HSST ngày 22/3/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, xử phạt 01 năm 03 tháng tù, về tội: Trộm cắp tài sản. Ngày 27/02/2020, chấp hành xong hình phạt tù; Tiền sự : Không; Nhân thân: Ngày 03/8/2012, bị Ủy ban nhân dân thành phố B, ra Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, tại Trung tâm Giáo dục lao động Xã hội tỉnh Đắk Lắk, thời hạn 24 tháng về hành vi: Sử dụng trái phép chất ma túy. Đến ngày 16/5/2014, chấp hành xong Quyết định hành chính.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 01/11/2020 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại:

- Anh Nguyễn Khắc T, sinh năm 1996; Địa chỉ: Tổ dân phố B, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (Vắng mặt).

- Anh Cao Huy M, sinh năm 1977; Địa chỉ: Thôn T, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk (Vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Lê Hoàng C, sinh năm: 1986; Địa chỉ: Phường K, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (Vắng mặt).

- Anh Tô Bá S, sinh năm 1970; Địa chỉ: Thôn T, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (Vắng mặt).

- Anh Cù Thanh P, sinh năm 1985; Địa chỉ: Thôn M, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Đình T là người đã bị kết án, về tội: Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích, ngày 01/11/2020 T đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản tại địa bàn thành phố B, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 02 giờ 30 phút sáng ngày 01/11/2020, Phạm Đình T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe Nouvo, màu đen, biển số 47M1 – 4935 đi trên đường L, phường T, thành phố B, tìm kiếm tài sản của người dân để sơ hở thì trộm cắp. Khi đi đến trước căn nhà đang xây dựng đường L, T nhìn thấy bên trong có ánh đèn điện nên dừng xe mô tô để ở ngoài đường rồi đi bộ vào trong, quan sát thấy anh Nguyễn Khắc T, đang nằm ngủ trên giường xếp, bên phía chân trái có để 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy, loại A7, màu xanh nên T đã đi đến lén lút trộm cắp chiếc điện thoại di động Samsung, của anh T rồi đi ra ngoài lên xe mô tô bỏ đi.

Vụ thứ hai: Sau khi trộm cắp được điện thoại di động nêu trên, Phạm Đình T tiếp tục điều khiển xe mô tô biển số 47M1 – 4935 đi lòng vòng qua một số tuyến đường trên địa bàn thành phố B, tìm kiếm tài sản của người dân sơ hở để tiếp tục trộm cắp. Đến khoảng 04 giờ sáng ngày 01/11/2020, T điều khiển xe đi đến trước số nhà trên đường V, phường K, thành phố B, thì nhìn thấy căn nhà đang xây dựng. T dừng xe ngoài đường đi bộ vào trong nhà, quan sát không có ai nên T đi vào phòng thứ hai, bên trái căn nhà thấy có 01 máy cắt sắt nhãn hiệu Classic, loại CLA – 355 mm, màu xanh đen và 01 máy cắt sắt cầm tay nhãn hiệu T-Max, màu xanh đen, của anh Cao Huy M. T lén lút đi đến trộm cắp: 02 máy cắt sắt, đem ra bỏ lên mô tô rồi chạy đi tìm nơi tiêu thụ. Đến khoảng 06 giờ 30 phút cùng ngày, khi T đang đi tìm nơi tiêu thụ tài sản thì bị Công an phường E, thành phố B, phát hiện bắt giữ cùng tang vật và thu giữ trên người T 01 con dao bằng kim loại, dài 25 cm. Sau đó, chuyển giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, xử lý theo thẩm quyền.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số: 248/KLĐG, ngày 09/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, loại Galaxy A7, màu xanh, số Imei: 353465103661268, đã qua sử dụng; trị giá: 2.500.000 đồng.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số: 249/KLĐG, ngày 09/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận: 01 chiếc máy cắt sắt nhãn hiệu Classic, loại CLA – 355 mm, màu xanh đen; trị giá: 800.000 đồng và 01 máy cắt sắt cầm tay nhãn hiệu T-Max, màu xanh đen; trị giá: 200.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là: 1.000.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, loại Galaxy A7, màu xanh, là tài sản của anh Nguyễn Khắc T; 01 chiếc máy cắt sắt nhãn hiệu Classic, loại CLA – 355 mm, màu xanh đen và 01 máy cắt sắt cầm tay nhãn hiệu T-Max, màu xanh đen, là tài sản của anh Cao Huy M. Ngày 27/11/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, ra Quyết định xử lý vật chứng, trao trả cho anh Nguyễn Khắc T và anh Cao Huy M, là các chủ sở hữu nhận quản lý, sử dụng. Sau khi nhận lại tài sản anh Nguyễn Khắc T và anh Cao Huy M không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Phạm Đình T. Ngày 08/11/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, hình thức: Cảnh cáo, quy định tại Khoản 1, Điều 21, Nghị định 167/NĐ/CP ngày 12/11/2013 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự an toàn xã hội.

Tại bản cáo trạng số: 37/CT-VKS-TPBMT ngày 29/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, đã truy tố bị cáo Phạm Đình T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Kết quả xét hỏi tại phiên tòa, bị cáo Phạm Đình T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đã đánh giá, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Phạm Đình T, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Đình T phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Đình T (C) từ: 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng đến 03 (Ba) năm tù.

* Các biện pháp tư pháp: Áp dụng các Điều 46, Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, trả lại: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, loại Galaxy A7, màu xanh, là tài sản của anh Nguyễn Khắc T; 01 chiếc máy cắt sắt nhãn hiệu Classic, loại CLA – 355 mm, màu xanh đen và 01 máy cắt sắt cầm tay nhãn hiệu T-Max, màu xanh đen, là tài sản của anh Cao Huy M, là các chủ sở hữu nhận quản lý, sử dụng. Sau khi nhận lại tài sản anh Nguyễn Khắc T và anh Cao Huy M không yêu cầu bồi thường gì thêm.

- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Nouvo, màu đen, số máy: 2B52112753, số khung: N2B5206Y112753, biển số 47M1 – 4935. Quá trình điều tra xác định là tài sản của anh Cù Thanh P cho bị cáo Phạm Đình T mượn để sử dụng. Anh P không biết việc bị cáo Phạm Đình T sử dụng làm phương tiện trộm cắp tài sản nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, không đề cập xử lý đồng thời ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả cho anh Cù Thanh P, nhận quản lý sử dụng là phù hợp.

- Đối với 01 con dao bằng kim loại, dài 25cm, Phạm Đình T nhặt được tại ngã ba đường L và đường Y, phường E, thành phố B, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận của bị cáo Phạm Đình T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu chứng cứ khác được thu thập, có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa.

Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, truy tố đối với bị cáo Phạm Đình T là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Như vậy, đã có đủ cơ sở pháp lý kết luận: Trong khoảng thời gian từ 02 giờ 30 phút đến 04 giờ sáng giờ ngày 01/11/2020, tại địa bàn thành phố B, Phạm Đình T đã lén lút trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, loại Galaxy A7, màu xanh, của anh Nguyễn Khắc T, trị giá: 2.500.000 đồng và trộm cắp 01 chiếc máy cắt sắt nhãn hiệu Classic, loại CLA – 355 mm, màu xanh đen và 01 máy cắt sắt cầm tay nhãn hiệu T-Max, màu xanh đen, của anh Cao Huy M, trị giá: 1.000.000 đồng. Tổng trị giá tài sản Phạm Đình T trộm cắp là: 3.500.000 đồng. Tuy nhiên bản thân bị cáo T là người đã có 03 tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích nên hành vi của Phạm Đình T thực hiện là đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

1“Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

g) Tái phạm nguy hiểm”.

[2] Xét tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm bất hợp pháp đối với quyền sở hữu về tài sản của bị hại, đồng thời còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội. Bị cáo là công dân có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của bản thân trong cuộc sống, buộc bị cáo phải biết được rằng tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật đều bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc. Song do ý thức coi thường pháp luật, muốn có tiền tiêu xài nhưng lười biếng lao động nên bị cáo đã lén lút trộm cắp của người bị hại. Do vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi mà mình đã gây ra; cần thiết phải cách ly bị cáo Phạm Đình T ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định thì mới phát huy tác dụng cải tạo, giáo dục riêng đối với bị cáo và góp phần răn đe phòng ngừa tội phạm chung trong toàn xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo thực hiện hai vụ trộm cắp tài sản nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội hai lần trở lên được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo Phạm Đình T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, tài sản đã được thu hồi trả lại cho người bị hại. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm h, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần áp dụng để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta.

[4] Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Nouvo, màu đen, số máy: 2B52112753, số khung: N2B5206Y112753, biển số 47M1 – 4935. Quá trình điều tra xác định là tài sản của anh Cù Thanh P cho bị cáo Phạm Đình T mượn để sử dụng. Anh P không biết việc bị cáo Phạm Đình T sử dụng làm phương tiện trộm cắp tài sản nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, không đề cập xử lý đồng thời ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả cho anh Cù Thanh P, nhận quản lý sử dụng là phù hợp.

Đối với các tài sản: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, loại Galaxy A7, màu xanh, là tài sản của anh Nguyễn Khắc T; 01chiếc máy cắt sắt nhãn hiệu Classic, loại CLA – 355 mm, màu xanh đen và 01 máy cắt sắt cầm tay nhãn hiệu T-Max, màu xanh đen, là tài sản của anh Cao Huy M. Ngày 27/11/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, ra Quyết định xử lý vật chứng, trao trả cho anh Nguyễn Khắc T và anh Cao Huy M, là các chủ sở hữu nhận quản lý, sử dụng. Sau khi nhận lại tài sản anh Nguyễn Khắc T và anh Cao Huy M không yêu cầu bồi thường gì thêm, là phù hợp.

Đối với 01 con dao bằng kim loại, dài 25cm, Phạm Đình T nhặt được tại ngã ba đường L và đường Y, phường E, thành phố B, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Phạm Đình T. Ngày 08/11/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, hình thức: Cảnh cáo, quy định tại Khoản 1, Điều 21, Nghị định 167/NĐ/CP ngày 12/11/2013 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự an toàn xã hội, là đúng quy định của pháp luật.

[5] Về hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình thực hiện các quyết định điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[6] Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự; điểm h, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Phạm Đình T (C) phạm tội “Trộm cắp tài sản” Xử phạt bị cáo Phạm Đình T (C): 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 01/11/2020.

* Các biện pháp tư pháp: Căn cứ các Điều 46, Điều 47 và Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Chấp nhận Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại các tài sản gồm: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, loại Galaxy A7, màu xanh, cho anh Nguyễn Khắc T; 01chiếc máy cắt sắt nhãn hiệu Classic, loại CLA – 355 mm, màu xanh đen và 01 máy cắt sắt cầm tay nhãn hiệu T-Max, màu xanh đen cho anh Cao Huy M;

01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Nouvo, màu đen, số máy: 2B52112753, số khung: N2B5206Y112753, biển số 47M1 – 4935 cho anh Cù Thanh P, là các chủ sở hữu nhận quản lý, sử dụng.

- Tịch thu tiêu hủy 01 con dao bằng kim loại, dài 25cm, không có giá trị sử dụng của Phạm Đình T.

(Vật chứng có đặc điểm số lượng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 30/12/2020 giữa Công an thành phố Buôn Ma Thuột và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột)

* Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Phạm Đình T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm ngày) ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm ngày) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2021/HS-ST ngày 02/02/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:46/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về