Bản án 46/2021/HNGĐ-ST ngày 28/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 46/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 28/4/2021, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Tân Phú, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 550/2020/TLST- HNGĐ ngày 22 tháng 12 năm 2020 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 31/3/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 28/2021/QĐST – HNGĐ ngày 16/4/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị Tuyết M, sinh năm 1988.

Địa chỉ: 173/1, Khu phố 6, LĐC, phường TT, Quận BT Thành phố H

Bị đơn: Anh Dương Minh Đ, sinh năm 1983.

Địa chỉ: Số nhà 569, tổ 2, ấp 3, xã PL, huyện TP, ĐN.

(Tại phiên tòa vắng mặt chị M, anh Đ (chị M có đơn xin vắng mặt, anh Đ triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt))

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 19/10/2020, lời khai trong quá trình tố tụng ý kiến, yêu cầu của nguyên đơn chị Huỳnh Thị Tuyết M thể hiện:

Chị và anh Dương Minh Đ tự nguyện tìm hiểu yêu thương rồi tiến tới chung sống với nhau vào năm 2016. Hôn nhân của anh chị được Uỷ ban nhân dân xã PL, huyện TP cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 21/01/2016. Cuộc sống chung vợ chồng hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân xuất phát từ việc anh Đ không quan tâm tới đời sống gia đình, ham chơi không lo làm ăn chăm sóc gia đình. Chị và anh Đ đã sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay. Chị không còn tình cảm với anh Đ nên yêu cầu được ly hôn với anh Dương Minh Đ.

Về con chung: Chị và anh Đ có 01 (một) con chung là Dương Thanh N, sinh ngày 19/4/2017. Khi ly hôn, chị có nguyện vọng nuôi dưỡng cháu N và không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Chị và anh Đ không có tài sản chung và không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Về nợ chung: Chị và anh Đ không có nợ chung và không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án chị M đã cung cấp những tài liệu, chứng cứ sau: Chứng minh nhân dân của chị M, anh Đ (bản sao); Sổ hộ khẩu của chị M (bản sao); Giấy chứng nhận kết hôn (bản chính); Giấy khai sinh (bản sao).

Để giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ sau: Bản tự khai của nguyên đơn; Biên bản xác minh về sự có mặt của đương sự tại địa phương, tình trạng hôn nhân, điều kiện nuôi con của các đương sự. Các tài liệu, chứng cứ nêu trên đã được Tòa án ra thông báo cho các bên đương sự biết đồng thời tiến hành mở phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải và ra thông báo kết quả về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho những người vắng mặt theo đúng quy định của pháp luật.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm:

- Về việc tuân theo pháp luật: Trong quá trình thụ lý, giải quyết và tại phiên tòa xét xử sơ thẩm; Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa và các đương sự tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Về quan điểm quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn.

+ Về quan hệ hôn nhân: Cho chị M được ly hôn anh Đ.

+ Về quan hệ nuôi con và cấp dưỡng nuôi con: Giao cháu Dương Thanh N, sinh ngày 19/4/2017 cho chị M nuôi dưỡng. Anh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị M không yêu cầu.

+ Về tài sản chung: Chị M khai báo anh chị không có tài sản chung và không yêu cầu Tòa án xem xét. Vì không có lời khai của anh Đ nên khi nào phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết bằng vụ án khác.

+ Về nợ chung: Chị M khai báo anh chị không có nợ chung và không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết. Vì không có lời khai của anh Đ nên khi nào phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết bằng vụ án khác.

+ Về án phí: Chị M phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định của pháp luật.

- Điều luật áp dụng: Điều 18, 85, 86, 88, 89, 91, 92, 94 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 và Điều 131 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 1 Điều 28, Điều 203, 205 và khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/NQ – UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về thu nộp án phí, lệ phí Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tại phiên tòa, chị M vắng mặt do chị có đơn xin vắng mặt, anh Đ được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt mà không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên các đương sự không cung cấp thêm tài liệu chứng cứ nào khác.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về áp dụng pháp luật tố tụng:

[1.1]. Xác định thẩm quyền giải quyết và quan hệ pháp luật: Anh Đ có địa chỉ tại ấp 3, xã PL, huyện TP, ĐN. Vì vậy, căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định vụ án thuộc thẩm quyền thụ lý, giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú. Chị M yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn, tranh chấp về nuôi con. Vì vậy cần xác định quan hệ pháp luật là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2]. Xác định tư cách đương sự: Ngày 20/10/2020, chị M khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Đ. Căn cứ theo khoản 2, khoản 3 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự xác định chị M là nguyên đơn, anh Đ là bị đơn trong vụ án.

Nguyên đơn chị Huỳnh Thị Tuyết M vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; Bị đơn anh Dương Minh Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt tại phiên tòa, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sựu.

[2]. Về áp dụng pháp luật nội dung:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị M và anh Đ được xác lập vào năm 2016. Hôn nhân của anh chị được Uỷ ban nhân dân xã PL, huyện TP, ĐN cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 21/01/2016. Chị M có đơn yêu cầu giải quyết ly hôn, tranh chấp về nuôi con. Tòa án giải quyết theo thủ tục chung về ly hôn mà Luật hôn nhân và gia đình quy định.

Xét lời khai của chị M và tài liệu, chứng cứ thu thập trong quá trình tiến hành tố tụng thể hiện: Quá trình chung sống vợ chồng anh chị sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân xuất phát từ việc anh Đ ham chơi, không lo làm ăn, vợ chồng không đồng lòng đồng sức chăm lo cho gia đình.

Qua xác minh tại địa phương thể hiện đời sống chung của vợ chồng anh chị không còn hạnh phúc. Anh chị đã sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay. Trong thời gian sống ly thân, anh chị ít qua lại, thông tin liên lạc và không trực tiếp trao đổi để vợ chồng có cơ hội về chung sống đoàn tụ với nhau. Nay chị M nhận thấy tình cảm không còn, không thể tiếp tục chung sống nên chị yêu cầu ly hôn với anh Đ.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện các thủ tục cấp, tống Đ, niêm yết: Thông báo thụ lý vụ án; giấy triệu tập đương sự và các tài liệu, chứng cứ do đương sự giao nộp cũng như Tòa án thu thập được cho các bên đương sự. Tòa án đã thông báo và mở phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải. Tại phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ chị M không có ý kiến gì và không bổ sung gì thêm. Bị đơn anh Đ vắng mặt đã được tòa án ra thông báo kết quả về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ theo đúng quy định của pháp luật. Do anh Đ vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến hay yêu cầu nào của anh Đ.

Nhận thấy hôn nhân giữa anh chị không còn hạnh phúc, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích của hôn nhân không Đ được. Để anh Đ, chị M có điều kiện ổn định cuộc sống của mình, căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp chận yêu cầu của chị M, cho chị được ly hôn với anh Đ.

[2.2]. Về quan hệ nuôi dưỡng con và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị M khai báo anh chị có 01 (một) con chung là Dương Thanh N, sinh ngày 19/4/2017.

Xét nguyện vọng nuôi con của chị M: Con chung hiện do chị M trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng kể từ khi vợ chồng sống ly thân. Khi ly hôn các bên đều có quyền được nuôi con, tuy Nên trong suốt quá trình giải quyết vụ án anh Đ không có mặt tại Tòa án nên không ghi nhận được ý kiến của anh Đ đối với yêu cầu nuôi con của chị M.

Do cháu còn nhỏ và quen với môi trường chăm sóc, nuôi dưỡng của người mẹ, Hội đồng xét xử nhận thấy cần giữ nguyên nếp sống sinh hoạt hiện nay nhằm đảm bảo ổn định tâm lý cho cháu và phù hợp với nguyện vọng của cháu nên chấp nhận nguyện vọng nuôi con của chị M là phù hợp với quy định của pháp luật.

Chị M không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét mức cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn. Khi nào có tranh chấp về việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con sẽ giải quyết bằng vụ kiện khác.

[2.3]. Về tài sản chung, nợ chung: Do trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa, Tòa án không ghi nhận được ý kiến của anh Đ về yêu cầu này vì vậy khi nào có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

[3]. Về án phí: chị M là nguyên đơn trong vụ án ly hôn, do đó chị M phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147, và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[4]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[5]. Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa về đường lối giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Các Điều 28, 35, 39, 147, khoản 1 và khoản Điều 228, Điều 235, 238 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 91, 92, 93, 94 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; Điều 19, 51, khoản 1 Điều 56, các Điều 58, 81, 82, 83, 84 và Điều 131 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị Tuyết M.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Huỳnh Thị Tuyết M được ly hôn anh Dương M Đ.

- Về con chung: Chị M, anh Đ có 01 (một) con chung là Dương Thanh N, sinh ngày 19/4/2017.

Giao cháu Dương Thanh N cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng.

- Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Tạm thời anh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung do Chị M không yêu cầu. Anh Đ có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được gây trở ngại.

Các đương sự được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định.

- Về tài sản chung, nợ chung: Tách ra giải quyết vụ án khác khi phát sinh tranh chấp.

2. Về án phí: Chị M phải nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn. Số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) chị M đã nộp tạm ứng án phí tại biên lai thu số 0003904 ngày 22/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai chuyển thành án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Huỳnh Thị Tuyết M và anh Dương M Đ có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2021/HNGĐ-ST ngày 28/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:46/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về