Bản án 46/2020/HS-ST ngày 28/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH XUYÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 46/2020/HS-ST NGÀY 28/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 28 tháng 5 năm 2020 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đ, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc, Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 47/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2020/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Đỗ Xuân Đ, sinh ngày 11 tháng 02 năm 2001 tại thị trấn Đ, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Thôn Đại Phúc 2, thị trấn Đ, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Văn Tâm và bà Nguyễn Thị Thinh; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 09/HSST ngày 17 tháng 02 năm 2020, Tòa án nhân dân thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Đ 01 năm 08 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời điểm bị cáo phạm tội là ngày 31 tháng 01 năm 2019 (Đ 17 tuổi 11 tháng 20 ngày); bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23 tháng 12 năm 2019 đến nay “có mặt”.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1988; trú tại: Tổ dân phố Mậu Thông, phường Kh, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc “vắng mặt” 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 45 phút ngày 23 tháng 12 năm 2019, Đỗ Xuân Đ điều khiển xe mô tô biển kiểm soát: 88F4- 9158 đi từ nhà đến khu vực đối diện cổng Công ty Thép Việt Đức, khi đi Đ mang theo 04 viên ma túy tổng hợp “kẹo” và 01 gói ma túy tổng hợp “ke” với mục đích để bán cho các đối tượng nghiện kiếm lời. Tại đây Đ gặp Nguyễn Văn H đi xe taxi của anh Hoàng Văn Hải, sinh năm 1984 ở thôn Đậu, xã Định Trung, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc đến và hỏi mua của Đ 01 viên ma túy tổng hợp “kẹo”. Đ đồng ý và nói: “Giá vẫn như hôm qua, năm trăm nghìn một viên”. Khi H đưa cho Đ số tiền 500.000đồng, Đ cầm tiền và đang lấy một trong bốn viên ma túy tổng hợp “kẹo” đựng trong túi nilon mang theo người để đưa cho H nhưng chưa kịp đưa thì bị bắt quả tang; tang vật thu giữ gồm: Thu tại túi quần bên trái phía trước đang mặc trên người Đ 01 gói nhỏ nilon màu trắng bên trong chứa 04 viên nén màu vàng nghệ, được niêm phong ký H A1 và 01 gói nhỏ màu trắng bên trong có chứa các hạt tinh thể dạng đá, được niêm phong ký H A2, Đ khai nhận là ma túy mang đi để bán kiếm lời; thu trong tay phải của Đ số tiền 500.000đồng, Đ khai là tiền bán ma túy cho H mà có; tạm giữ của Đ 01 xe mô màu nâu yếm trắng biển kiểm soát: 88F4- 9158 đã cũ và 01 điện thoại di động nhãn H Iphone vỏ màu trắng, bạc đã cũ số.

Tại kết luận giám định số 2692/KLGĐ ngày 26 tháng 12 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: 04 viên nén màu vàng nghệ của mẫu ký H A1 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng là 1,6881g (Một phảy sáu tám tám một gam, không kể bao bì) loại MDMA.

Tinh thể màu trắng của mẫu ký H A2 gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 0,4928g (Không phảy bốn chín hai tám gam, không kể bì) loại Ketamine.

Hoàn trả trực tiếp đối tượng giám định còn lại sau giám định A1= 1,3871 gam; A2 = 0,2995 gam cùng toàn bộ báo gói.

Quá trình điều tra xác định được Đỗ Xuân Đ còn bán ma túy cho Nguyễn Văn H vào ngày 22 tháng 12 năm 2019, cụ thể:

Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 22 tháng 12 năm 2019, Đ đi đến khu vực đối diện cổng Công ty Thép Việt Đức thuộc thôn Trại, thị trấn Đ, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc, mang theo 03 viên ma túy tổng hợp MDMA và 01 gói ma túy tổng hợp Ketamine mục đích để tìm đối tượng nghiện ma túy để bán kiếm lời. Tại đây, Đ gặp Nguyễn Văn H đi xe taxi (không xác định được hãng xe, Biển kiểm soát xe và danh tính người lái xe), H nói, có ma túy “kẹo”, “ke” không bán cho một ít để sử dụng, Đ hiểu ý H hỏi mua ma túy nên đồng ý và nói “Tôi có ba viên ma túy kẹo giá 500.000đồng một viên và một gói ma túy ke giá 2.500.000đồng, mua bao nhiêu thì đưa tiền đây tôi bán cho”. H trả lời “Mua hết” và đưa cho Đ số tiền 4.000.000đồng. Đ cầm tiền và đưa cho H 03 viên ma túy tổng hợp MDMA và 01 gói ma túy Ketamine đồng thời nói: “Lần sau nếu muốn mua ma túy thì cứ đến đây vào giờ này, ngày nào tôi cũng đứng ở đây” , H đồng ý trả lời:“Ừ”. Sau đó, H về nhà sử dụng hết số ma túy trên còn Đ đã sử dụng chi tiêu cá nhân hết số tiền.

Về nguồn gốc số ma túy dùng để bán, Đ khai nhận: Bản thân là người nghiện ma túy nên khoảng ngày 13 tháng 12 năm 2019, Đ một mình đến khu vực Đền Hai Bà Trưng thuộc xã Mê Linh, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội mua của một nam giới khoảng 35 tuổi không rõ danh tính 08 viên ma túy tổng hợp “kẹo” MDMA với giá 450.000đồng/1viên và 02 gói ma túy tổng hợp “ke” - Ketamine với giá 2.250.000đồng/1gói. Sau đó Đ mang ma túy về nhà và sử dụng một viên ma túy tổng hợp “kẹo” MDMA. Số ma túy còn lại, Đ giấu trong người mục đích để bán kiếm lời. Trong ngày 22 và ngày 23 tháng 12 năm 2019, Đ đã 02 lần bán số ma túy trên cho Nguyễn Văn H.

Cáo trạng số 49/CT-VKSBX ngày 23 tháng 4 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên truy tố Đỗ Xuân Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát trình bày lời luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như Cáo trạng đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 55, Điều 56 của Bộ luật hình sự; xử phạt Đỗ Xuân Đ từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Tổng hợp với 01 năm 08 tháng tù của bản án hình sự sơ thẩm số: 09/2019/HSST ngày 17 tháng 02 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh phúc. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án từ 09 năm 02 tháng đến 09 năm 08 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam.

Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Đ.

Đồng thời đề xuất quan điểm về xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của người tham gia tố tụng: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong quá trình điều tra trình bày và xác nhận về việc bị cáo trình bày về việc anh mua ma túy của bị cáo Đ 02 lần là đúng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đầy đủ, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định, hành vi của người tiến hành tố tụng trong vụ án là hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo khai nhận: Trong ngày 22 và ngày 23 tháng 12 năm 2019, Đỗ Xuân Đ đã 02 lần bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Văn H, sinh năm 1998 ở thôn Mậu Thông, phường Kh, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc, cụ thể:

Lần thứ nhất: Khoảng 21 giờ 00 phút, ngày 22 tháng 12 năm 2019, tại khu vực đối diện cổng Công ty Thép Việt Đức thuộc thị trấn Đ, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc, Đỗ Xuân Đ đã bán cho Nguyễn Văn H 03 viên ma túy MDMA với giá 1.500.000đồng và 01 gói ma túy Ketamine với giá 2.500.000đồng.

Lần thứ hai: Khoảng 20 giờ 45 phút, ngày 23 tháng 12 năm 2019, Đỗ Xuân Đ mang theo người 04 viên ma túy tổng hợp MDMA có khối lượng là 1,6881 gam và 01 gói ma túy Ketamine có khối lượng 0,4928 gam đến khu vực đối diện cổng Công ty Thép Việt Đức thuộc thị trấn Đ, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc để bán cho các đối tượng nghiện, khi Đ đang bán cho Nguyễn Văn H 01 viên ma túy MDMA với giá 500.000đồng thì bị bắt quả tang, thu giữ toàn bộ tang vật. Xét lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có tro ng hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Từ đó có đủ cơ sở để kết luận hành vi của Đỗ Xuân Đ đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Nội dung điều luật quy định:

“…2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

…b, Phạm tội 02 lần trở lên;…”

[3] Xét tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma tuý là chất gây nghiện nguy hiểm được nhà nước độc quyền và thống nhất quản lý với các quy định rất nghiêm ngặt. Bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an và an toàn xã hội nên cần xử phạt nghiêm mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

[4] Xét về nhân thân của bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng: Ngày 31 tháng 01 năm 2019 Đỗ Xuân Đ gây rối trật tự công cộng sau đó bị khởi tố về tội “Gây rối trật tự công cộng” và được tại ngoại. Trong thời gian tại ngoại bị cáo không chịu tu dưỡng bản thân, bất chấp quy định của pháp luật đã mua bán trái phép chất ma túy mục đích để kiếm lời và lấy ma túy để sử dụng cho bản thân, chứng tỏ bị cáo là kẻ coi thường pháp luật. Nhưng tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do vậy, cần xử phạt bị cáo với mức hình phạt tù tương xứng với tính chất mức độ về hành vi bị cáo đã thực hiện. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2020/HS-ST ngày 17 tháng 02 năm 2020, Tòa án nhân dân thành phố Phúc Yên xử phạt Đ 01 năm 08 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”; bị cáo đang chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này nên Hội đồng xét xử quyết định hình phạt đối với tội đang xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự như đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo như biên bản xác minh giữa Công an huyện Bình Xuyên và Công an thị trấn Đạo Đức, huyện Bình Xuyên thì Đỗ Xuân Đ là người nghiện ma túy, không nghề nghiệp, không có thu nhập và không có tài sản gì. Do vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với Đ như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

[6] Về vật chứng và các vấn đề liên quan trong vụ án:

Về nguồn gốc số ma túy Đỗ Xuân Đ đem bán ngày 22 và 23 tháng 12 năm 2019, do Đ không biết tên tuổi và địa chỉ của người nam giới bán ma túy cho Đ, Cơ quan điều tra không xác định được danh tính nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với Nguyễn Văn H là người mua ma túy của Đ ngày 22 và ngày 23 tháng 12 năm 2019; đối với số ma túy H mua của Đ ngày 22 tháng 12 năm 2019 H khai sau khi mua được ma túy H đã sử dụng một phần, số ma túy còn lại H để ở túi quần và cho vào máy giặt giặt cùng quần áo nên đã tan thành nước nên Cơ quan Điều tra không thu giữ được. Ngày 23 tháng 12 năm 2019 H mua của Đ 01 viên ma túy nhưng chưa nhận được ma túy thì bị bắt. Bản thân H là người sử dụng trái phép chất ma túy, mục đích mua ma túy để sử dụng cho bản thân nên Cơ quan Điều tra đã Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với H.

Đối với anh Hoàng Văn Hải, sinh năm1984 ở thôn Đậu, xã Định Trung, thành phố Vĩnh Yên là người lái xe taxi chở H ngày 23 tháng 12 năm 2019, quá trình điều tra anh Hải khai nhận không biết mục đích H thuê xe taxi của anh để đi mua ma túy nên Cơ quan Điều tra không xem xét xử lý đối với anh Hải.

Đối với mẫu vật hoàn lại sau giám định gồm A1= 1,3871 gam; A2 = 0,2995 gam mẫu và toàn bộ bao gói Cơ quan giám định hoàn trả lại sau giám định không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 500.000đồng là tiền của H trả cho Đ để mua ma túy nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

Đối với 01 điện thoại di động Iphone vỏ màu trắng, đã cũ của Đỗ Xuân Đ, quá trình điều tra xác định Đ không sử dụng điện thoại vào việc mua bán ma túy nên trả lại cho Đ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Đối với số tiền 4.000.000đồng Đ bán ma túy cho H ngày 22 tháng 12 năm 2019. Quá trình điều tra, Đ khai đã sử dụng chi tiêu cá nhân hết nên cần truy thu của Đ số tiền 4.000.000đồng để nộp ngân sách nhà nước.

Đối với chiếc xe mô tô màu nâu biển kiểm soát: 88F4- 9158 thu giữ của Đỗ Xuân Đ. Đ khai mượn của bạn tên là Cương ở Mộ Đạo - Đạo Đức – Bình Xuyên, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại Đạo Đức – Bình Xuyên nhưng không xác định được đối tượng Cương theo lời khai của Đ. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh và tra cứu tại Phòng PC01 – Công an tỉnh Vĩnh Phúc xác định chủ sở hữu là anh Nguyễn Văn Nhất, sinh năm 1981 ở Tự Lập – Mê Linh – Hà Nội và xe không nằm trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng; anh Nhất khai nhận có mua xe mô tô biển kiểm soát: 88F4-9158 từ năm 2001, sau đó đã bán cho một người không rõ danh tính nên chưa xác định được chủ sở hữu phương tiện, Cơ quan điều tra giữ lại tiếp tục xác minh khi nào làm rõ xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đỗ Xuân Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 55, khoản 1 Điều 56 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đỗ Xuân Đ 7 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Tổng hợp với 01 (Một) năm 08 (Tám) tháng tù của bản án hình sự sơ thẩm số: 09/2019/HSST ngày 17 tháng 02 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh phúc. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 09 (Chín) năm 02 (Hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 23 tháng 12 năm 2019.

Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng).

Truy thu của Đỗ Xuân Đ số tiền 4.000.000đ (Bốn triệu đồng) để sung vào ngân sách nhà nước.

Tịch thu tiêu hu A1= 1,3871 gam; A2 = 0,2995 gam mẫu cùng toàn bộ bao gói Cơ quan giám định hoàn trả lại sau giám định.

Trả cho bị cáo Đỗ Xuân Đ 01 điện thoại di động Iphone vỏ màu trắng đã cũ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Toàn bộ vật chứng của vụ án có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Bình Xuyên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Xuyên lập ngày 27 tháng 5 năm 2020).

Về án phí: Buộc bị cáo Đỗ Xuân Đ phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2020/HS-ST ngày 28/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:46/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Xuyên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về