TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC KẠN – TỈNH BẮC KẠN
BẢN ÁN 46/2020/HSST NGÀY 25/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25/9/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bắc Kạn, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 45/2020/HSST ngày 04/9/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47 /QĐXXST- HS, ngày 14/9/2020, đối với bị cáo:
Bùi Xuân C - Sinh ngày 10/10/1962, tại Thái Bình:
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ x, phường S, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không ; quốc tịch: Việt nam; con ông Bùi Văn T và bà Đặng Thị N (đều đã chết); có vợ là Vũ Thị M, sinh năm 1964; có 02 con (lớn nhất sinh năm 1981, nhỏ nhất sinh năm 1983); tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 09/6/2020 đến ngày 18/6/2020 được tại ngoại - Có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Bà Vũ Thị M – Sinh năm 1964:
Trú tại: Tổ x, phường S, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn – Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 16h 40’ ngày 09/6/2020, tại khu vực tổ 15, phường Sông Cầu, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn, tổ công tác của Công an phường Sông Cầu bắt quả tang Bùi Xuân C có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ của Bùi Xuân C 03 (Ba) gói nhựa màu trắng dán kín hai đầu, bên trong chứa chất bột màu trắng được gói trong lá cây màu xanh, có tổng khối lượng là 0,22 gam (Không phẩy hai hai gam); niêm phong vào phong bì ký hiệu M1 gửi giám định. Ngoài ra còn tạm giữ của Bùi Xuân C 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, biển kiểm soát 97B1-234.xx cùng chìa khóa xe.
Quá trình điều tra Bùi Xuân C khai nhận: Khoảng 16h ngày 09/6/2020, C một mình điều khiển xe mô tô BKS 97B1-234.xx từ nhà đến khu vực thôn Nam Đội Thân, xã Nông Thượng, thành phố Bắc Kạn tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây C gặp một người phụ nữ tên Hồng (không biết họ tên đầy đủ và địa chỉ cụ thể) được 03 gói ma túy (Heroin) với giá 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng). Sau khi mua được ma túy, vì sợ rơi nên C đã ngắt lá cây cạnh đường gói 03 gói ma túy và cầm trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe mô tô đi về nhà, khi đến khu vực tổ 15, phường Sông Cầu, thành phố Bắc Kạn thì bị Công an phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.
Tại bản kết luận giám định số 88/KTHS – MT, ngày 13/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: “Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, loại Heroin, có khối lượng là 0,22g (không phẩy hai hai gam).
Với các hành vi nêu trên, tại bản cáo trạng số 41/CT-VKSNDTPBK, ngày 04/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn đã truy tố bị cáo Bùi Xuân C về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.
Điều luật có nội dung:
1, Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù một năm đến năm năm.
a,… c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn vẫn giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Bùi Xuân C phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
Về hình phạt: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38/BLHS, xử phạt bị cáo Bùi Xuân C từ 12 tháng đến 15 tháng tù.
Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 09/6/2020 đến ngày 18/6/2020.
Về vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47/BLHS và Điều 106/BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì ký hiệu T88 và M2 còn nguyên dấu niêm phong. Trả lại cho bà Vũ Thị M 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda BKS 97B1-234.xx đã qua sử dụng có số khung RLHJA3914KY3770xx, số máy JA39E-12449xx cùng chìa khóa xe.
Về án phí: Đề nghị áp dụng Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Quá trình tranh luận bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến gì tranh luận với đại diện Viện kiểm sát và bị cáo nói lời sau cùng là xin Hội đồng xét xử cho mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên và tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập:
Các hành vi, quyết định tố tụng và các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp và đúng theo quy định của pháp luật.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 09/6/2020 Bùi Xuân C có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ của C tổng cộng 0,22g (Không phẩy hai hai gam) Heroin với mục đích để bản thân sử dụng, không nhằm mục đích để mua bán. Do đó hành vi của Bùi Xuân C đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.
Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo Bùi Xuân C đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.
Tổng hợp các chứng cứ lại, đánh giá diễn biến khách quan của vụ án thấy việc truy tố, xét xử bị cáo Bùi Xuân C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Xét tính chất hành vi của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về chế độ quản lý các chất ma túy; gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an xã hội tại địa phương. Vì vậy cần phải xử lý bằng pháp luật hình sự nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; không phải chịu tình tiết tăng nặng nào; được hưởng một tình tiết giảm nhẹ là “Thành khẩn khai báo” được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS.
[4] Hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản và nguồn thu nhập ổn định nào, khi áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền thì không có tính khả thi. Vì vậy không áp dụng đối với bị cáo.
[5] Về vật chứng: - Tịch thu tiêu hủy những vật không có giá trị sử dụng gồm: 02 phong bì ký hiệu T88 và M2 còn nguyên dấu niêm phong. Còn 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda BKS 97B1-234.xx đã qua sử dụng có số khung RLHJA3914KY3770xx, số máy JA39E-12449xx cùng chìa khóa xe, xác định là tài sản của bà Vũ Thị M (là vợ của bị cáo), bà M không biết bị cáo C sử dụng vào việc phạm tội. Vì vậy cần trả lại cho chủ sở hữu.
(Tình trạng vật chứng như biên bản bàn giao giữa Công an và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bắc Kạn).
[6] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
[7] Đối với người phụ nữ tên Hồng đã bán ma túy cho bị cáo Bùi Xuân C, do bị cáo không biết họ tên đầy đủ và địa chỉ cụ thể của người này, nên Cơ quan điều tra không đủ cơ sở để điều tra, xử lý.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1, Tuyên bố: Bị cáo Bùi Xuân C phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38/ Bộ luật hình sự.
+ Xử phạt bị cáo Bùi Xuân C 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt thi hành án. Được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 09/6/2020 đến ngày 18/6/2020.
2,Về vật chứng:
- Áp dụng Điều 47/BLHS và Điều 106/BLTTHS.
+ Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì ký hiệu T88 và M2 còn nguyên dấu niêm phong.
+ Trả lại cho bà Vũ Thị M, trú tại tổ x, phường S, thành phố Bắc Kạn 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda BKS 97B1-234.xx đã qua sử dụng, có số khung RLHJA3914KY3770xx, số máy JA39E-12449xx cùng chìa khóa xe.
(Tình trạng vật chứng như biên bản bàn giao giữa Công an và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bắc Kạn ngày 14/9/2020).
3, Về án phí:
- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
+ Buộc bị cáo Bùi Xuân C phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
Án xử công khai sơ thẩm; có mặt bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 46/2020/HSST ngày 25/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 46/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Kạn - Bắc Kạn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về