Bản án 46/2020/HNGĐ-ST ngày 21/09/2020 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦU NGANG, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 46/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/09/2020 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 21 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 364/2020/TLST-HNGĐ, ngày 13/8/2020 về việc “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2020/QĐST-HN, ngày 07/9/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T A, sinh năm 1993; Địa chỉ: Ấp R, xã K huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh. Có mặt

Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh L, sinh năm 1992; Địa chỉ: Ấp A, xã K, huyện C N, tỉnh Trà Vinh. Có mặt 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các bản khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị T A trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Thanh L do quen biết và tìm hiểu năm 2015 xác lập quan hệ hôn nhân có đăng ký kết hôn tại UBND xã K, huyện CN, tỉnh Trà Vinh, thời gian chung sống chị và anh L có 01 con chung tên Nguyễn Hoàng H, sinh ngày 10/01/2017 hiện đang sống với chị A, thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 01 năm 2020 vợ chồng thường xảy ra mâu thuẩn do kinh tế vợ chồng không thỏa thuận được thường xuyên cải nhau cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, tình cảm giữa vợ chồng không còn. Nay chị A yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Thanh L.

Về nuôi con tên: Nguyễn Hoàng H, sinh ngày 10/01/2017 chị A đang nuôi dưỡng chị yêu cầu được tiếp tục nuôi.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị A yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi con chung Nguyễn Hoàng H, sinh ngày 10/01/2017 đủ 18 tuổi. Tại phiên tòa hôm nay chị A rút yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chị không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Quá trình thụ lý giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa chị A không tranh chấp, không khởi kiện, không đặt ra yêu cầu giải quyết.

Về số nợ phải thu, phải trả: Chị A không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại các bản khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa bị đơn anh Nguyễn Thanh L trình bày:

Về xác lập quan hệ hôn nhân, về kết hôn, về con chung chị A trình bày là đúng. Về tài sản chung anh không khởi kiện, không tranh chấp và không đặt ra yêu cầu Tòa án giải quyết, về số nợ phải thu, phải trả không có không yêu cầu. Nguyên nhân mâu thuẩn giữa vợ chồng anh thừa nhận vợ chồng có cải nhau về kinh tế đầu tháng 01/2020 chị A đã bỏ về nhà cha mẹ ruột sống 07 tháng nay và vào tháng 5/2020 anh có làm đơn xin ly hôn nhưng vợ chồng đã thỏa thuận về đoàn tụ để cùng nhau nuôi dạy con chung nhưng vẫn không đoàn tụ được, từ khi ly thân cho đến nay mạnh ai nấy sống, không còn quan tâm nhau, mọi nhu cầu thiết yếu hàng ngày mỗi người tự lo liệu để sinh sống.

Nay anh cũng đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị A, về con chung tên Nguyễn Hoàng H, sinh ngày 10/01/2017 anh yêu cầu được nuôi và không yêu cầu chị A cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung của vợ chồng anh không khởi kiện, không tranh chấp và không đặt ra không yêu cầu Tòa án giải quyết, về nợ chung không có anh không yêu cầu. Ngoài ra anh không có yêu cầu gì khác.

Lời phát biểu của Kiểm sát viên:

- Về việc tuân theo pháp luật: Về thủ tục thụ lý hồ sơ vụ án, xác định quan hệ pháp luật, xác định người tham gia tố tụng, thành phần tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm đều đúng quy định pháp luật. Các văn bản tố tụng từ khi nhận đơn khởi kiện cho đến khi ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử đều tống đạt đầy đủ cho các đương sự nhận. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã tiến hành đầy đủ trình tự thủ tục đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận thuận tình ly hôn của chị A và anh L, về con chung giao cho chị A tiếp tục nuôi con tên Nguyễn Hoàng H, sinh ngày 10/01/2017 và chị A rút yêu cầu cấp dưỡng nuôi con tại nên không xem xét. Ngoài ra về tài sản chung do chị A không khởi kiện nên không xem xét giải quyết, về số nợ phải thu, phải trả không tranh chấp, không yêu cầu nên không xem xét, án phí chị A phải chịu án phí hôn nhân và gia đình theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Về thẩm quyền giải quyết: Xét thấy bị đơn anh Nguyễn Thanh L có nơi cư trú trên địa bàn huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cầu Ngang theo quy định tại Điều 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Xét đơn của chị Nguyễn Thị T A khởi kiện xin ly hôn với anh Nguyễn Thanh L và yêu cầu nuôi con chung nên xác định quan hệ tranh chấp “Ly hôn và tranh chấp nuôi con” là đúng quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T A và anh Nguyễn Thanh L xác lập quan hệ hôn nhân năm 2015 và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào các Điều 08 và Điều 09 Luật hôn nhân và gia đình thì hôn nhân của chị A và anh L là hợp pháp.

Xét thấy quá trình chung sống giữa chị A và anh L tuy chưa thống nhất nhau về quan điểm đời sống vợ chồng, lối sống, về cách ứng xử giao tiếp thì anh chị phải biết tự điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với cuộc sống hiện tại, cùng nhau góp ý xây dựng, chia sẽ và tôn trọng lẫn nhau để tìm cách giải quyết mọi vấn đề một cách êm đẹp nhất nhằm bảo vệ hạnh phúc gia đình. Khi mâu thuẫn phát sinh chị A và anh L đều bỏ mặt cho hậu quả xảy ra, không còn quan tâm đến tình nghĩa vợ chồng, 07 tháng nay anh chị ly thân nhưng anh chị cũng không quan tâm đến cuộc sống gia đình làm cho tình cảm vợ chồng ngày càng rạng nức tháng 5/2020 anh L làm đơn khởi kiện ra Tòa xin ly hôn với chị A sau đó chị rút đơn khởi kiện để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không thể hàn gắn được. Tòa án đã hòa giải 02 để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng chị A và anh L không đoàn tụ được mạnh ai nấy sống không còn quan tâm với nhau, từ đó cho thấy khả năng hàn gắn đoàn tụ vợ chồng là không có kết quả.

Tại phiên tòa hôm nay chị A xác định tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân không đạt được. chị A xin được ly hôn với anh L là có căn cứ, đúng quy định tại Điều 51 và Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu đơn khởi kiện của chị A, xử cho chị A và anh L được ly hôn với nhau.

Về nuôi con: Xét thấy cháu Nguyễn Hoàng H, sinh ngày 10/01/2017 là con của chị A và anh L, trong thời gian vợ chồng ly thân từ tháng 01/2020 đến nay cháu H sống với chị A, được chị A nuôi dưỡng chăm sóc chu đáo về mọi mặt. Tại phiên tòa chị A xin được quyền nuôi dưỡng con chung là phù hợp, để cháu H có cuộc sống ổn định về thể chất, trí tuệ, đạo đức và tinh thần, Hội đồng xét xử giao cháu H cho chị A được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn là phù hợp với quy định của pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con: Tại đơn khởi kiện đề ngày 12/8/2020 chị A yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi tại phiên tòa hôm nay chị A không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng nuôi con chung xét thấy việc rút yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung của chị A là tự nguyện nên Hội đồng xét xử xét thấy cần được chấp nhận và đình chỉ yêu cầu cấp dưỡng nuôi con của chị A là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Về tài sản chung: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay chị A và anh L không khởi kiện, không tranh chấp. Hội đồng xét xử không xem xét.

Về số nợ phải thu, phải trả: Chị A và anh L khai không có, không yêu cầu giải quyết, Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí sơ thẩm: Chị A phải nộp tiền án phí theo quy định pháp luật. Xét đề nghị của Kiểm sát viên là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 01 Điều 28, 35, 39, Điều 147, 228, 235 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị T A.

Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự tự nguyện thuận tình ly hôn chị Nguyễn Thị T A và anh Nguyễn Thanh L được ly hôn với nhau.

Về nuôi con: Giao con chung tên Nguyễn Hoàng H, sinh ngày 10/01/2017 cho chị Nguyễn Thị T A được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Anh Nguyễn Thanh L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được quyền ngăn cản. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Về cấp dưỡng nuôi con: Hội đồng xét xử đã giải thích Điều 107 và Điều 110 của Luật hôn nhân và gia đình về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung sau khi ly hôn nhưng chị A không tranh chấp, không khởi kiện không đặt ra yêu cầu giải quyết, Hội đồng xét xử không xem xét.

Đình chỉ yêu cầu cấp dưỡng nuôi con của chị Nguyễn Thị T A.

Về tài sản chung: Chị A và anh L không khởi kiện, không tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về số nợ phải thu, phải trả: Chị A và anh L không tranh chấp, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí sơ thẩm: Buộc chị Nguyễn Thị T A có nghĩa vụ nộp 300.000 đồng, nhưng được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số:

0002574, ngày 13/8/2020 do chị A nộp cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cầu Ngang thu, chị Nguyễn Thị T A đã nộp đủ án phí.

Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 02 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2020/HNGĐ-ST ngày 21/09/2020 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:46/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cầu Ngang - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về