Bản án 46/2019/HS-ST ngày 27/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 46/2019/HS-ST NGÀY 27/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn,  tỉnh  Lạng  Sơn  xét  xử  sơ  thẩm  công  khai  vụ  án  hình  sự  thụ  lý  số 40/2019/TLST-HS ngày 07 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo: Hà Ngọc V (tên gọi khác Hà Văn T), sinh ngày 28/02/1978 tại Lạng Sơn. Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn B, xã L, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trinh độ học vấn: 0/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Quốc B và bà Dương Thị D (đều đã chết); vợ là Luân Thị E và 03 con; tiền sự: Không; tiền án: Không; nhân thân: Ngày 17/3/2015 bị TAND huyện C, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (đã được xóa án tích). Danh chỉ bản số 095 lập ngày 26/12/2018. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/12/2018 cho đến nay. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Luân Thị E, sinh năm 1978. Địa chỉ: Thôn B, xã L, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

Người chứng kiến: Ông Phạm Trọng Đ. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 08 giờ 00 phút ngày 25/12/2018, Hà Ngọc V đi xe mô tô BKS 12K9-5715 đi từ nhà đến thành phố L với mục đích đi mua ma túy về sử dụng. Đến chợ Đ, Hà Ngọc V gửi xe và đi bộ ra cổng chợ mua hai gói ma túy với giá 200.000đ với một người đàn ông (không rõ tên tuổi, địa chỉ). Hà Ngọc V cất hai gói ma túy vào túi áo khoác bên trái đang mặc. Khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, Hà Ngọc V đi xe ôm đến khu vực đô thị P, phường H, thành phố L chuẩn bị sử dụng ma túy thì bị tổ công tác công an phường H, thành phố L bắt quả tang và thu giữ tang vật.

Bản kết luận giám định số 49/KL- PC09 ngày 28/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng gửi giám định là chất ma túy Heroine, có khối lượng 0,110 gam (đã trừ bì).

Tại bản Cáo trạng số 45/CT-VKS-MT ngày 07/03/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Hà Ngọc V về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Hà Ngọc V khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy đúng như nội dung cáo trạng đã nêu.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Luân Thị E trình bày: Chị là vợ của Hà Ngọc Vũ, ngày 25/12/2018 chồng chị có sử dụng xe mô tô biển kiểm soát 12K9 5715 đi  ra khỏi nhà. Nguồn gốc xe là của hai vợ chồng chị mua để phục vụ nhu cầu đi lại chung, đăng kí xe mang tên Hà Ngọc V. Việc Hà Ngọc V sử dụng xe đi mua và tàng trữ ma túy chị không biết. Ngày 17/01/2019, chị đã nhận lại chiếc xe và không có ý kiến gì khác.

Người chứng kiến ông Phạm Trọng Đ vắng mặt tại phiên tòa, lời khai có trong hồ sơ vụ án thể hiện ông được chứng kiến sự việc lực lượng Công an thành phố Lạng Sơn bắt quả tang và thu giữ tang vật đúng như bị cáo khai nhận.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Hà Ngọc V phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; xử phạt bị cáo Hà Ngọc V từ 12 tháng đến 15 tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 25/12/2018; không áp dụng hình phạt bổ sung. Về xử lý vật chứng, đề nghị áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã niêm phong chất ma túy hoàn lại sau giám định; bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận tại phiên tòa. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và trả lại xe mô tô cho gia đình bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Lời khai của bị cáo Hà Ngọc V tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên toà. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 25/12/2018, tại khu đô thị P, phường H, thành phố L, Hà Ngọc V đã có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy Heroine với khối lượng 0,110 gam để sử dụng. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn truy tố bị cáo Hà Ngọc V về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

 [3] Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương, gây bất bình trong xã hội. Bị cáo nhận thức rõ ma túy là chất gây nghiện, có tác hại nghiêm trọng đến sức khỏe con người, là nguyên nhân làm phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác nhưng bị cáo vân cố ý thực hiện.

 [4] Về nhân thân: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nghiện ma túy, đã bị xử phạt tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

 [5] Về tình tiết tăng nặng: Không

 [6] Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, bị cáo có bố là ông Hà Quốc B được Nhà nước tặng thưởng huân chương chống Mỹ cứu nước, huân chương chiến sĩ vẻ vang. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

 [7] Về hình phạt chính: Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân người phạm tội, bị cáo không được đi học, sinh sống tại địa bàn kinh tế đặc biệt khó khăn của tỉnh Lạng Sơn, điều này cũng ảnh hưởng phần nào đến nhận thức của bị cáo, tuy nhiên bị cáo đã có 01 tiền án dã được xóa án tích nhưng không lấy đó làm bài học mà vẫn tiếp tục phạm tội, thể hiện thái độ coi thường pháp luật. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ. Hội đồng xét xử xem xét, quyết định một mức án tương xứng với hành vi phạm tội đó là cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định để bị cáo có thời gian tập trung học tập, cải tạo và trở thành công dân có ích cho xã hội, đồng thời cũng đảm bảo tính chất răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

 [8] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền do bị cáo không có việc làm ổn định, không có thu nhập và tài sản riêng theo biên bản xác minh ngày 14 tháng 02 năm 2019 của Cơ quan điều tra công an thành phố Lạng Sơn.

 [9]  Đối  với  người  đàn  ông  bán  ma  túy  cho  Hà  Ngọc  V  vào  ngày 25/12/2018. Do bị cáo không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể, Cơ quan Cảnh sát điều tra không xác minh làm rõ để xử lý trong vụ án được nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

 [10] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đối với 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật Heroine sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy; Đối với chiếc xe môtô BKS 12K9-5715, là tài sản của bị cáo Hà Ngọc V và vợ là Luân Thị E, việc bị cáo sử dụng xe để đi mua ma túy, chị Luân Thị E không biết, cơ quan điều tra đã trả lại xe cho chị Luân Thị E nên Hội đồng xét xử không xem xét, đề cập.

 [11] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

 [12] Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Hà Ngọc V phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Hà Ngọc V 01 (một) năm 01 (một) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 25/12/2018.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật chất ma túy sau giám định. 

 (Vật chứng trên đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố  Lạng  Sơn,  tỉnh  Lạng  Sơn  theo  biên  bản  giao  nhận  vật  chứng  ngày 28/02/2019).

3. Án phí: Bị cáo Hà Ngọc V phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm, sung Ngân sách Nhà Nước.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2019/HS-ST ngày 27/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:46/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về