Bản án 46/2019/HS-ST ngày 16/08/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 46/2019/HS-ST NGÀY 16/08/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 16 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 0/2019/HSST ngày 20 tháng 6 năm 2019. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2019/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Thanh N, sinh năm 1990 Nơi cư trú: Khu A, thị trấn B, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Thanh V và Trần Thị Ánh T; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Ngày XX/12/2008, bị can bị TAND huyện Bù Đăng xử phạt 06 tháng tù giam về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

- Ngày XX/7/2014, bị can bị TAND huyện Bù Đăng xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Cố ý gây thương tích”.

- Ngày XX/7/2008 bị Công an huyện Bù Đăng xử phạt hành chính về hành vi “Gây rối trật tự công cộng” với hình thức cảnh cáo.

Bị can đã chấp hành án xong ngày 18/12/2014 và đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/5/2019 cho đến nay. (Có mặt)

- Bị hại: Nguyễn Ngọc B, sinh năm 19XX (Vắng mặt)

Địa chỉ: Khu Đ, thị trấn Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Trần Thị Ánh T, sinh năm 1968 (Có mặt)

Địa chỉ: Khu Đ, thị trấn Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước.

- Người làm chứng:

1. Điểu C, sinh năm 19XX (Vắng mặt)

Địa chỉ: Thôn S, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước.

2. Điểu G, sinh năm 1987 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Thôn S, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ ngày 22/11/2018, Nguyễn Ngọc B cùng với Điểu G, Điểu Thành, Điểu C hát karaoke tại phòng số 2 quán “PB” ở khu Đ, TT Đ, Bù Đăng, tỉnh B, thì Lê Thanh N tay phải cầm con dao (dài khoảng 50cm, lưỡi bằng kim loại màu trắng dài khoảng 40cm, bản rộng khoảng 05cm, mũi bằng, cán bằng nhựa màu đen dài khoảng 10cm) xông vào chém về phía anh B. Anh B đưa tay trái lên đỡ bị trúng vào cẳng tay gây thương tích. Chém xong, N cầm dao đi về vứt (ném) dưới suối ngay cầu BĐ, rồi bỏ trốn. Còn anh B được mọi người đưa đi cấp cứu, điều trị tại Bệnh viện.

Quá trình điều tra N khai nhận: Lý do chém anh B là do sáng ngày 22/11/2018, anh B có điện thoại nhờ N chở B đi công việc nhưng từ sáng đến chiều B không điện thoại cho N chở đi, nên N bực tức chém anh B.

Ti bản giám định pháp y về thương tích số 14/2019/TgT ngày 29/01/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Phước kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên đối với anh Nguyễn Ngọc B là 17% (Mười bảy phần trăm) - Về vật chứng vụ án: Con dao (dài khoảng 50cm, lưỡi bằng kim loại màu trắng dài khoảng 40cm, bản rộng khoảng 05cm, mũi bằng, cán bằng nhựa màu đen dài khoảng 10cm). Cơ quan điều tra đã truy tìm, nhưng không tìm được, nên không đặt ra.

- Về trách nhiệm dân sự: Bà Trần Thị Ánh T (mẹ của N) đã bồi thường 30.000.000đ, anh B làm đơn đề nghị xử lý nhẹ cho N, nên không đặt ra.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình nêu trên. Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm về tội danh đã truy tố đối với bị cáo.

Ti bản cáo trạng số: 51/CTr –VKS ngày 19/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố bị cáo Lê Thanh N về “Tội cố ý gây thương tích” theo điểm đ Khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Ti phiên tòa đại diện Viện kiểm sát khẳng định nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật, vì vậy đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Về tội danh đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Thanh N phạm “Cố ý gây thương tích”; về hình phạt, áp dụng điểm đ Khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Lê Thanh N từ 30 tháng đến 36 tháng tù.

Bị cáo Lê Thanh N thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến tranh luận về tội danh, hình phạt và các vấn đề khác đối với đại diện Viện kiểm sát.

Li nói sau cùng: Bị cáo biết hành vi của mình là sai phạm, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Bù Đăng, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Ngày 22/11/2018 do có mâu thuẫn về việc anh Nguyễn Ngọc B có điện thoại nhờ Lê Thanh N chở B đi công việc nhưng từ sáng đến chiều anh B không điện thoại cho N chở đi, nên N bực tức. Khoảng 19 giờ cùng ngày, tại phòng số 2 quán “PB” ở khu Đ, TT Đ, Bù Đăng, Bình Phước. Lê Thanh N đã có hành vi dùng dao chém vào cẳng tay trái anh Nguyễn Ngọc B gây thương tích với tỷ lệ thương tích là 17% (mười bảy phần trăm) tạm thời.

Hi đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo Lê Thanh N đã phạm vào “Tội cố ý gây thương tích”, quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Điều 134: Tội cố ý gây thương tích quy định

“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng vũ khí;

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỉ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 điều này”.

Như vậy, nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi dùng dao chém vào cơ thể người khác có thể gây ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người khác. Nhưng do nóng nảy, thiếu kiềm chế bị cáo đã cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an ở địa phương. Bị cáo đã xâm phạm đến sức khỏe của người khác, đây là quyền nhân thân được nhà nước và pháp luật bảo hộ. Bản thân bị cáo đã từng bị Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng xử phạt về các tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và “Cố ý gây thương tích” và bị Công an huyện Bù Đăng xử phạt hành chính về hành vi “Gây rối trật tự công cộng” tuy đã được xóa án tích nhưng vẫn được coi là có nhân thân không tốt.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Về nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại. Bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s Khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Sau khi cân nhắc mức độ hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo và tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng, Hội đồng xét xử thấy cần xử bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bà Trần Thị Ánh T (mẹ của N) đã bồi thường cho bị hại 30.000.000 đồng. Bị hại không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm quy định tại Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Quan điểm xử lý vụ án của Đại diện Viện kiển sát tham gia phiên tòa về hình phạt là có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Lê Thanh N phạm “Tội cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm đ Khoản 2 Điều 134, các điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 38; của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lê Thanh N 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 15/5/2019.

[2] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lê Thanh N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại địa phương nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2019/HS-ST ngày 16/08/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:46/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về