Bản án 46/2019/HS-ST ngày 14/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DẦU TIẾNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 46/2019/HS-ST NGÀY 14/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 45/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phan Viết T, sinh năm 1991 (tên gọi khác: L), tại tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: Ấp A, xã B, huyện D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Viết L1, sinh năm 1962 và bà Ngô Thị Kim H, sinh năm 1962; vợ Đào Thị Kim L2, sinh năm 1983 và 02 con (lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2018); tiền án: Không; tiền sự: Không. Nhân thân: Bản án số 55/2008/HSST ngày 23/7/2008 của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương xử phạt bị cáo Phan Viết T 08 (tám) tháng tù về tội “trộm cắp tài sản” Phan Viết T đã chấp hành xong hình phạt tù, án phí và bồi thường dân sự và Bản án số 09/2009/HSST ngày 20/01/2009 của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương xử phạt bị cáo Phan Viết T 26 (hai mươi sáu) tháng tù về tội “Cướp tài sản” Phan Viết T đã chấp hành xong hình phạt tù, án phí.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03 tháng 6 năm 2019 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Trần Quốc T1, sinh năm 1986; hộ khẩu thường trú: Ấp A, xã B, huyện D, tỉnh Bình Dương. (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

2. Ông Phan Viết L3, sinh năm 1983; hộ khẩu thường trú: Ấp Chiến Thắng, xã Định An, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương. (có mặt)

- Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng:

1. Ông Phạm Minh H (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bà Hoàng Thị Thu T2 (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

4. Ông Phan Nhựt T3 (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

5. Ông Lê Văn T4 (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phan Viết T là đối tượng nghiện ma túy. Do không có việc làm ổn định lại muốn có tiền tiêu xài cá nhân và mua ma túy sử dụng nên từ tháng 11 năm 2018 T thường mua ma túy của một đối tượng (không xác định được nhân thân lai lịch) tại quận E, Thành phố Hồ Chí Minh về bán lại cho các con nghiện để kiếm tiền lời. Cụ thể: Trong khoảng thời gian từ tháng 11/2018 đến ngày 03/6/2019, trên địa bàn thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương, T đã bán ma túy cho các con nghiện như sau:

1. Phạm Minh H, sinh năm 2000; ngụ tại khu phố F, thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương khoảng 20 lần, mỗi lần 01 liều với giá từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng.

2. Trần Ngọc T5, sinh năm 1994; ngụ tại ấp I, xã K, huyện D, tỉnh Bình Dương 06 lần, mỗi lần một liều giá 200.000 đồng.

3. Hoàng Thị Thu T2, sinh năm 2001; ngụ tại ấp M, xã N, huyện D, tỉnh Bình Dương 06 lần, mỗi lần 01 liều giá 200.000 đồng.

4. Phan Nhựt T3, sinh năm 1992; ngụ tại ấp O, xã P, huyện D, tỉnh Bình Dương 05 lần, mỗi lần 01 liều giá 200.000 đồng.

5. Lê Văn T4, sinh năm 1997; ngụ tại ấp Q, xã P, huyện D, tỉnh Bình Dương 02 lần, mỗi lần 01 liều giá 200.000 đồng.

6. Võ Quốc H1, sinh năm 1996; ngụ tại ấp U, xã P, huyện D, tỉnh Bình Dương 04 lần, mỗi lần 01 liều giá 200.000 đồng.

7. Hồ Thị Huyền T6, sinh năm 2001; ngụ tại V, thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương 02 lần: 01 lần giá 300.000 đồng và 01 lần giá 500.000 đồng. Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 03/6/2019, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Exciter, biển số 61H1-115.81 đi đến quận E, Thành phố Hồ Chí Minh mua ma túy để sử dụng và bán lại cho các con nghiện. Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 03/6/2019, Thiện chở bạn gái là Mai Thị Thùy D1, sinh năm 1986, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: xã R, huyện S, tỉnh Gia Lai; tạm trú tại thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương đến quán nước giải khát Phát Tài tại khu phố G, thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương. Tại đây, D1 nằm trên võng ngủ, T ngồi uống nước thì Phan Nhựt T3 gọi điện thoại cho T để mua ma túy. T đồng ý bán cho T3 01 liều ma túy giá 200.000 đồng và hẹn T3 đến quán nước giải khát Phát Tài để bán ma túy. Khoảng 16 giờ 00 phút, T3 đến quán Phát Tài gặp T. Tại đây, T đưa cho T 200.000 đồng để mua ma túy thì bị Công an thị trấn D kết hợp cùng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Dầu Tiếng bắt quả tang và thu giữ các tang vật như sau:

- 01 xe mô tô hiệu Yamaha, biển số 61H1-115.81;

- 01 điện thoại màu bạc hồng, hiệu Oppo;

- 01 điện thoại màu bạc trắng, hiệu Samsung;

- 09 đoạn ống hút nhựa, bên trong chứa tinh thể trắng;

- 01 gói nilong hàn kín bên trong chứa tinh thể trắng được niêm trong;

- Tiền Việt Nam 500.000 đồng.

Ngày 04/6/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Dầu Tiếng ra Quyết định trưng cầu giám định số: 120/QĐ gửi đến Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương giám định 09 đoạn ống hút nhựa màu trắng, hàn kín bên trong chứa tinh thể trắng và 01 gói nilong hàn kín bên trong chứa tinh thể trắng được niêm phong trong bì thư dán kín có chữ ký của cán bộ niêm phong Đoàn Anh N1, đối tượng bị bắt Phan Viết T và đóng dấu của Công an thị trấn D.

Kết luận giám định số: 436/MT-PC09 ngày 06/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy có khối lượng 0,1180 gam (M1) và 1,153 gam (M2) loại Methamphetamine.

Đối với đối tượng có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Phan Viết T do không xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương không có căn cứ để điều tra, làm rõ xử lý; khi nào điều tra được sẽ xử lý sau.

Ngày 16/9/2019, Công an huyện Dầu Tiếng ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 101/QĐ, 102/QĐ, 103/QĐ, 104/QĐ, 105/QĐ, 106/QĐ, 108/QĐ đối với Lê Văn T4, Hoàng Thị Thu T2, Phạm Minh H, Phan Nhựt T3, Võ Quốc H1, Trần Ngọc T5, Hồ Thị Huyền T6 về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Đối với Mai Thị Thùy D1, D1 không biết việc T sử dụng và mua bán trái phép chất ma túy nên D1 không đồng phạm với Phan Viết T về hành vi mua bán trái phép chất ma túy.

Đối với xe mô tô hiệu Yamaha, biển số 61H1-115.81. Quá trình điều tra xác định: Xe mô tô trên do ông Trần Quốc T1, sinh năm 1986; ngụ tại ấp A, xã B, huyện D, tỉnh Bình Dương là người đứng tên chủ sở hữu nhưng ông T1 đã bán xe này cho ông Phan Viết L3, sinh năm 1983; ngụ tại ấp A, xã B, huyện D, tỉnh Bình Dương nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Ngày 03/6/2019, T mượn xe của ông L3 để đi công việc. Ông L3 không biết việc T sử dụng xe mô tô trên để đi mua và bán trái phép chất ma túy. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Dầu Tiếng chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện D, đề nghị tuyên trả cho ông Phan Viết L3 là chủ sở hữu hợp pháp của xe mô tô trên.

Đối với 01 điện thoại màu bạc hồng, hiệu Oppo và số tiền Việt Nam 500.000 đồng. Xét thấy, Phan Viết T dùng điện thoại này để liên lạc với các con nghiện mua bán ma túy nên là phương tiện thực hiện tội phạm. Đồng thời, số tiền 500.000 đồng là tiền thu lợi bất chính có được từ việc bán trái phép chất ma túy của T. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Dầu Tiếng chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện D, đề nghị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Đối với 01 điện thoại màu bạc trắng, hiệu Samsung. Xét thấy, Phan Viết T sử dụng vào mục đích chơi game nên là tài sản cá nhân của Phan Viết T. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện D chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện D, đề nghị tuyên trả cho T.

Đối với bì thư bên trong chứa 0,0429 gam (M1) và 00,7251 (M2) gam ma túy (khối lượng sau khi giám định) loại Methamphetamine được niêm phong số:

436/PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương. Xét thấy, đây là tang vật của vụ án. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện D, tỉnh Bình Dương đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Tại bản Cáo trạng số 47/CT-VKSDT-HS ngày 24/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Phan Viết T về tội “mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương trong phần tranh tụng vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Phan Viết T về tội “mua bán trái phép chất ma túy”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Phan Viết T từ 08 (tám) đến 10 (mười) năm tù.

Đề nghị xử lý vật chứng: - Đối với 01 (một) xe mô tô, hiệu Yamaha, loại Exciter, biển số 61H1-115.81, màu sơn xanh trắng, số máy: 55P1-093008; số khung: RLCE55P10CY092998. Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Dầu Tiếng xác định do ông Trần Quốc T1 là chủ sở hữu, ông T1 đã bán xe nêu trên cho ông Phan Viết L3 nhưng chưa làm thủ tục sang tên chủ sở hữu, ông T1 không có ý kiến gì về xe mô tô nêu trên. Bị cáo Phan Viết T lấy xe của ông L3 để đi mua và bán ma túy nhưng ông L3 không biết việc bị cáo T dùng xe mô tô nêu trên làm phương tiện phạm tội. Vì vậy, đây là tài sản hợp pháp của ông Phan Viết L đề nghị tuyên trả cho ông Phan Viết L là chủ sở hữu hợp pháp của xe mô tô trên.

- Đối với 01 (một) điện thoại màu bạc trắng, hiệu Samsung, số IMEI: 358465/09/143251/1. Bị cáo T sử dụng vào mục đích chơi game không dùng để liên lạc khi mua và bán ma túy nên đây là tài sản của bị cáo T đề nghị tuyên trả cho bị cáo T.

- Đối với 01 (một) điện thoại màu bạc hồng, hiệu Oppo, số IMEI: 86309103401354. Bị cáo T dùng để liên lạc khi mua và bán ma túy nên đây là phương tiện thực hiện tội phạm đề nghị tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

- Đối với số tiền Việt Nam 500.000 đồng là tiền thu lợi bất chính có được từ việc bán trái phép chất ma túy của bị cáo T đề nghị tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 (một) bì thư niêm phong ghi số: 436/PC09 có chữ ký của người chứng kiến Phan Viết T, hình dấu đỏ của Công an thị trấn D, chữ ký của Điều tra viên Đoàn Anh N1, chữ ký của trợ lý giám định Nguyễn Ngọc D2 và hình dấu đỏ niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương. Xét thấy, đây là tang vật của vụ án đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông L3 có ý kiến xin nhận lại chiếc xe mô tô, hiệu Yamaha, loại Exciter, biển số 61H1-115.81 và không có ý kiến gì khác. Tại phiên tòa, bị cáo T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có điều kiện cải tạo làm công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Dầu Tiếng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như sau: Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 03/6/2019, bị cáo T đang bán ma túy cho con nghiện tại quán nước giải khát Phát Tài thuộc khu phố G, thị trấn D, huyện D tỉnh Bình Dương thì bị bắt quả tang. Sau khi khám xét Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Dầu Tiếng thu giữ được 09 (chín) đoạn ống hút nhựa màu trắng, hàn kín bên trong chứa tinh thể trắng và 01 (một) gói nilong hàn kín bên trong chứa tinh thể trắng. Ngày 04/6/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Dầu Tiếng ra Quyết định trưng cầu giám định đối với 09 (chín) đoạn ống hút và 01 gói nilong thu giữ tại hiện trường đến Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tình Bình Dương. Tại bản kết luận số: 436/MT-PC09 ngày 06/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy có khối lượng 0,1180 gam (ký hiệu M1) và 1,153 gam (có ký hiệu M2) loại Methamphetaminne.

Lời khai nhận của bị cáo T phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Như vậy, có đủ căn cứ kết luận bản Cáo trạng số: 47/CT-VKSDT-HS ngày 24/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Phan Viết T về tội “mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi, mức độ phạm tội của bị cáo T rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy. Bị cáo T biết chất ma túy là loại chất gây nghiện mà Nhà nước cấm sử dụng, là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều căn bệnh hiểm nghèo, kéo theo nhiều tệ nạn xã hội. Bị cáo có nhân thân xấu từng bị xét xử về tội “trộm cắp tài sản” với mức hình phạt 08 tháng tù và tội “cướp tài sản” với mức hình phạt 26 tháng tù nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để bị cáo tự cải tạo, sửa chữa khi chấp hành án xong. Do bản chất lười lao động muốn có tiền để tiêu xài cá nhân mà không phải lao động nên bị cáo T đã mua và bán ma túy cho các con nghiện nhiều lần nên đã phạm vào tội “mua bán trái phép chất ma túy” với mức độ nghiêm trọng và nguy hiểm hơn. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực nhận thức được hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện, thể hiện bản chất xem thường pháp luật, làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự tại địa phương nơi xảy ra vụ án.

Đối với đối tượng bán trái phép chất ma túy cho bị cáo T do không xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương không có căn cứ để điều tra, làm rõ xử lý; khi nào điều tra được sẽ xử lý sau là phù hợp quy định của pháp luật. Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Lê Văn T4, Hoàng Thị Thu T2, Phạm Minh H, Phan Nhựt T3, Võ Quốc H1, Trần Ngọc T5, Hồ Thị Huyền T6. Ngày 16/9/2019, Công an huyện Dầu Tiếng ban hành các Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 101/QĐ, 102/QĐ, 103/QĐ, 104/QĐ, 105/QĐ, 106/QĐ, 108/QĐ là phù hợp quy định của pháp luật.

[4] Để đảm bảo công tác đấu tranh phòng chống tội phạm mà đặc biệt là tội phạm về ma túy trên địa bàn huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung nên cần xử lý bi cao mưc hình phạt thật nghiêm khắc tương xưng vơi tinh chât , mưc đô hanh vi pham tôi của bị cáo nhằm có điều kiện giáo dục, cải tạo bị cáo thành người công dân tốt, cũng như phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo T không có.

[6] Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử nhận thấy: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo T có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[7] Xét ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh, mức hình phạt và điều luật đề nghị áp dụng là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) xe mô tô, hiệu Yamaha, loại Exciter, biển số 61H1-115.81, màu sơn xanh trắng, số máy: 55P1-093008; số khung: RLCE55P10CY092998. Xét thấy, đây là tài sản hợp pháp của ông Phan Viết L3 nên trả lại cho ông L3.

- Đối với 01 (một) điện thoại màu bạc trắng, hiệu Samsung, số IMEI: 358465/09/143251/1. Bị cáo T sử dụng vào mục đích chơi game không dùng để liên lạc khi mua và bán ma túy cho các con nghiện. Vì vậy, đây là tài sản của bị cáo Thiện nên trả lại cho bị cáo T.

- Đối với 01 (một) điện thoại màu bạc hồng, hiệu Oppo, số IMEI: 86309103401354. Bị cáo T dùng để liên lạc khi mua và bán ma túy cho các con nghiện. Xét thấy, đây là phương tiện thực hiện tội phạm nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

- Đối với số tiền Việt Nam 500.000 đồng. Xét thấy, đây là tiền thu lợi bất chính từ việc phạm tội mà có nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 (một) bì thư niêm phong ghi số: 436/PC09 có chữ ký của người chứng kiến Phan Viết T, hình dấu đỏ của Công an thị trấn D, chữ ký của Điều tra viên Đoàn Anh N1, chữ ký của trợ lý giám định Nguyễn Ngọc D2 và hình dấu đỏ niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương. Xét đây là tang vật của vụ án nên tịch thu tiêu hủy.

[9] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo T phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Căn cứ vào các Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106, khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; khoản 1, 4 Điều 331; khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Phan Viết T phạm tội “mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Phan Viết T 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/6/2019.

2. Về vật chứng:

- Trả cho bị cáo Phan Viết T 01 (một) điện thoại màu bạc trắng, hiệu Samsung, số IMEI: 358465/09/143251/1.

- Trả cho ông Phan Viết L3 01 (một) xe mô tô, hiệu Yamaha, loại Exciter, biển số 61H1-115.81, màu sơn xanh trắng, số máy: 55P1-093008; số khung: RLCE55P10CY092998.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước:

+ Số tiền 500.000 đồng (năm trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số: AA/2014/0002462 ngày 26/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện D, tỉnh Bình Dương (hiện nộp vào tài khoản số: 3949.0.1045901.00000 ngày 26/9/2019 tại kho bạc Nhà nước huyện D)

+ 01 (một) điện thoại màu bạc hồng, hiệu Oppo, số IMEI: 863091034013545.

- Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) Bì thư niêm phong ghi số: 436/PC09 có chữ ký của người chứng kiến Phan Viết T, hình dấu đỏ của Công an thị trấn D, chữ ký của Điều tra viên Đoàn Anh N1, chữ ký của trợ lý giám định Nguyễn Ngọc D2 và hình dấu đỏ niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.

(Các vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện D, tỉnh Bình Dương đang quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 01/10/2019).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Phan Viết T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án (ngày 14/11/2019).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2019/HS-ST ngày 14/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:46/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dầu Tiếng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về