Bản án 46/2019/HSST ngày 08/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 46/2019/HSST NGÀY 08/04/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 4 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 51/2019/HSST ngày 11 tháng 3 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2019, đối với bị cáo:

Phạm Thị Thanh T, sinh ngày 06 tháng 01 năm 1993 tại T; Nơi cư trú: số nhà 12, đường P, tổ 32, phường B, thành phố T, tỉnh T; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa (học vấn) lớp 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn T và bà Lê Minh H; Có chồng là Nguyễn Hoàng G và 01 con sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú do đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Có mặt tại phiên tòa.

Người chứng kiến:

- Bà Bùi Thị H, sinh năm 1955; Trú tại: số nhà 85, tổ 03, phường B, thành phố T, tỉnh T. (vắng mặt)

- Ông Đào Xuân B, sinh năm 1964; Trú tại: số nhà 120, đường L, tổ 14, phường T1, thành phố T, tỉnh T. (vắng mặt)

- Anh Nguyễn Hoàng G, sinh năm 1992; ĐKHKTT: số nhà 197, tổ 08, phường M, quận H1, Thành phố H. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 10/12/2018, Phạm Thị Thanh T đi bộ từ phòng trọ của mình ở số nhà 88B, đường B1, tổ 14, phường T1, thành phố T đến khu vực đường L, tổ 17, phường T1, thành phố T, mục đích mua ma túy để bán kiếm lời. Tại đây T gặp và mua của một người nam giới khoảng 40 tuổi (không biết tên, địa chỉ) 3.000.000 đồng được 01 túi ma túy đá và xin người này 38 túi nylon nhỏ. T mang túi ma túy đá trên về phòng trọ, chia phần vào 20 túi nylon nhỏ rồi cất giấu cùng số ma túy còn lại dưới gối ở đầu giường phòng ngủ, nếu có người hỏi mua thì bán.

Khoảng 20 giờ cùng ngày có 01 nam giới khoảng 20 tuổi không biết tên, địa chỉ đến phòng trọ của T hỏi mua ma túy đá, T đã bán cho người này 01 túi nhỏ với giá 200.000 đồng (gồm 04 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng) rồi cất tiền vào túi quần đang mặc. Sau đó T lấy túi ma túy (túi ma túy đá chưa chia hết) cất vào túi quần trái để tiếp tục đi bán. Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày tổ công tác Công an phường T1, thành phố T kiểm tra hành chính việc đăng ký tạm trú tại phòng trọ của T. Trước sự chứng kiến của ông Đào Xuân Bình và bà Bùi Thị H, T đã tự giác lấy từ túi quần bên trái giao cho tổ công tác 01 túi nilon trong suốt bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng, T khai nhận đó là ma túy đá của T cất giấu để bán kiếm lời, tổ công tác tiến hành niêm phong trong 01 phong bì ký hiệu M1. Tiếp theo T lấy từ túi quần bên phải giao nộp cho tổ công tác 200.000 đồng (gồm 04 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng) và khai nhận đó là tiền của T bán ma túy mà có. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, quản lý đồ vật, tài liệu.

Cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình tiến hành khám xét khẩn cấp tại phòng trọ của Phạm Thị Thanh T. Qua khám xét thu dưới gối đầu giường ngủ của T 19 túi nhỏ trong suốt bên trong chứa các hạt tinh thể trong suốt, T khai là ma túy đá của T cất giấu để bán kiếm lời, tổ công tác niêm phong ký hiệu M2. Thu tại đầu giường ngủ của T01 điện thoại di động Iphone 6 màu ghi, 01 điện thoại di động Nokia 1280 màu đen và 18 vỏ túi nhỏ nilon.

Tại bản kết luận giám định số 418/KLGĐ-PC09 ngày 11/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận:

- Mẫu M1 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,9280 gam.

- Mẫu M2 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 3,5136 gam.

Tại bản cáo trạng số 50/CT-VKSTP ngày 11 tháng 3 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố Phạm Thị Thanh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa , trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015; Đề nghị xử phạt bị cáo Phạm Thị Thanh T mức án từ 05 đến 06 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng sung ngân sách nhà nước, về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, đề nghị: Tịch thu để tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định và 18 vỏ túi nilon trong suốt; tịch thu số tiền 200.000 đồng do phạm tội mà có sung ngân sách nhà nước. Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Iphone 6 màu ghi, 01 điện thoại di động Nokia 1280 màu đen, nhưng quản lý để đảm bảo thi hành án. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, Phạm Thị Thanh T khai như đã khai tại cơ quan điều tra và thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố.

Khi trình bày lời nói sau cùng Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Bình , Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với khai tại cơ quan điều tra phù hợp với lời khai của người chứng kiến là bà Bùi Thị H, ông Đào Xuân B và anh Nguyễn Hoàng G được chứng minh bằng biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định số 418/KLGĐ cùng các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 10/12/2018, tại phòng trọ của Phạm Thị Thanh T ở số nhà 88B, đường B1, tổ 14, phường T1, thành phố T, Công an bắt quả tang Phạm Thị Thanh T tàng trữ trái phép 4,4416 gam ma túy, loại Methamphetamine để bán kiếm lời. Ngoài ra trước đó vào 20 giờ cùng ngày T đã bán 01 gói ma túy cùng loại cho một nam giới không biết tên, địa chỉ lấy 200.000 đồng. Bị cáo là người trên 18 tuổi, có đầy đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của mình , hiểu rõ tác hại của ma túy và hành vi mua bán chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi đó của Phạm Thị Thanh T đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố là có căn cứ.

Viện dẫn Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:

"1. Người nào mua bán trái phép ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2 . ………

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản".

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất gây nghiện, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội, đi ngược lại với công cuộc đấu tranh kiên quyết của Đảng và Nhà nước ta về bài trừ tệ nạn ma túy ra khỏi xã hội nên tính chất vụ án là nghiêm trọng, cần xử phạt bị cáo nghiêm minh trước pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thấy: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử lên mức án tương xứng đồng thời cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Bị cáo thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy mục đích thu lợi nên cần áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Phạt bị cáo 5.000.000 đồng sung ngân sách nhà nước là phù hợp.

[6] Về nguồn gốc số ma túy, bị cáo khai mua của một người nam giới khoảng 40 tuổi (nhưng không biết tên, địa chỉ) tại khu vực đường L, tổ 17, phường T1, thành phố T. Do không xác định được người bán ma túy cho bị cáo nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

[7] Về xử lý vật chứng: Số ma túy thu giữ của bị cáo hoàn lại sau giám định là chất thuộc danh mục Nhà nước cấm lưu hành và 18 vỏ túi nilon trong suốt cần tịch thu tiêu hủy; số tiền 200.000 đồng thu của T do phạm tội mà có cần tịch thu sung ngân sách nhà nước; 02 chiếc điện thoại di động quản lý của bị cáo (gồm 01 điện thoại Iphone 6 màu ghi và 01 điện thoại Nokia 1280 màu đen), quá trình điều tra xét thấy không liên quan đến tội phạm nên trả lại cho bị cáo, nhưng quản lý để đảm bảo thi hành án.

[9] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47; Điều 50; khoản 1 Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Căn cứ Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; khoản 1 Mục I Danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Thị Thanh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt bị cáo Phạm Thị Thanh T 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Hình phạt bổ sung: Phạt Phạm Thị Thanh T 5.000.000 (năm triệu) đồng sung ngân sách nhà nước.

3. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu 0,9003 gam Methamphetamine (mẫu M1) và 3,4837 gam Methamphetamine (mẫu M2) trong 02 phong bao niêm phong cùng số 418/KLGĐ (mẫu vật hoàn trả sau giám định) và 18 vỏ túi nilon để tiêu hủy.

Tịch thu số tiền 200.000 đồng quản lý của Phạm Thị Thanh T do phạm tội mà có để sung ngân sách nhà nước.

Trả lại cho Phạm Thị Thanh T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu ghi, 01 điện thoại di động Nokia 1280 màu đen. Nhưng quản lý để đảm bảo thi hành án.

(Vật chứng và tài sản đã chuyển Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Bình quản lý có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/3/2019 và biên lai thu tiền số 0001420 ngày 11/3/2019).

4. Về án phí: Bị cáo Phạm Thị Thanh T phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo Phạm Thị Thanh T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 08/4/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2019/HSST ngày 08/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:46/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về