Bản án 46/2019/HS-ST ngày 05/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ MỸ, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 46/2019/HS-ST NGÀY 05/04/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 41/2019/TLST-HS ngày 12 tháng 3 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 3 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Đinh Văn S, tên gọi khác: B; sinh năm 1998 tại Bà Rịa-Vũng Tàu; trú tại: Khu phố P, phường M, thị xã P, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Văn H và bà Lê Thị Kim P; tiền sự: Không. Tiền án: Bản án số 17/2017/HSST ngày 16/3/2017 của Tòa án nhân dân huyện Tân Thành (nay là thị xã Phú Mỹ), tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Bị tạm giữ ngày 29/11/2018, bị tạm giam ngày 02/12/2018 (có mặt).

2. Võ Ngọc H, tên gọi khác: C; sinh năm 1993 tại Đồng Nai; trú tại: Khu phố P, phường M, thị xã P, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Ngọc D và bà Nguyễn Thị T; tiền án: Không; tiền sự: Không. Bị tạm giữ ngày 29/11/2018, bị tạm giam ngày 02/12/2018 (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 00 ngày 29/11/2018, Công an thị xã Phú Mỹ phối hợp với Công an phường Mỹ Xuân tiến hành kiểm tra hành chính phòng 202 nhà nghỉ HP ở khu phố Phước Hưng, phường Mỹ Xuân, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã phát hiện Đinh Văn S, Võ Ngọc H, Trương Quang Đ và Nguyễn An Ph đang có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Vật chứng thu giữ gồm: 02 (hai) gói nylon hàn kín, bên trong có chứa chất kết tinh không màu trong suốt, đựng trong chiếc hộp giấy hình chữ nhật, màu nâu trắng cất giấu dưới kệ tivi; 01 điện thoại di động Nokia của S; 01 điện thoại di động Nokia của H và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

Quá trình điều tra, S và H khai nhận như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 27/11/2018, S lên Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh gặp đối tượng tên Lâm (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 1.000.000 đồng (một triệu) ma túy đá. Sau đó, S đem số ma túy trên đến thuê phòng 202 nhà nghỉ HP phân nhỏ ra để sử dụng và bán lại cho các đối tượng nghiện kiếm lời. Khi cơ quan công an kiểm tra, S còn lại 02 gói ma túy cất dấu dưới kệ tivi. Võ Ngọc H là bạn của S và cũng là đối tượng nghiện. H được S cho ma túy sử dụng nên đã nhiều lần giúp S bán ma túy, cụ thể:

Lần thứ 01: Khoảng 10 giờ ngày 28/11/2018, Phạm Tấn Th điện thoại cho S hỏi mua 200.000 đồng (hai trăm ngàn) ma túy. S đồng ý hẹn Th đến nhà nghỉ HP. Tại đây, S bán cho Th 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng (hai trăm ngàn).

Lần thứ 02: Vào khoảng 17 giờ ngày 28/11/2018, Phạm Tấn Th điện thoại cho Sang hỏi mua 200.000 đồng (hai trăm ngàn) ma túy. S hẹn Th đến nhà nghỉ HP để thực hiện việc mua bán. Khi Th đến, S đưa ma túy cho H ra giao cho Th rồi lấy tiền đưa lại cho S.

Lần thứ 03: Khoảng 23 giờ ngày 28/11/2018, Phạm Tấn Th tiếp tục điện thoại cho S hỏi mua 200.000 đồng (hai trăm ngàn) ma túy. S hẹn Th đến nhà nghỉ HP để thực hiện việc mua bán. Khi Th đến, S đưa ma túy cho H ra giao cho Th rồi lấy tiền đưa lại cho S.

Tại Kết luận giám định số 336/GĐMT-PC09(Đ4) ngày 10/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu kết luận: Mẫu chất kết tinh không màu, trong suốt chứa trong 02 (hai) gói nylon hàn kín, niêm phong đựng trong phong bì màu trắng, có hình dấu của Công an phường Mỹ Xuân - CATX Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cùng các chữ ký ghi họ tên: Trung tá Hoàng Bá Hai, Võ Ngọc H, Đinh Văn S, Trương Tiến Q, Trương Quang Đ, Nguyễn Văn D gửi đến giám định có tổng khối lượng là 4,2599 gam là chất ma túy, loại Methamphetamine.

Đối với Phạm Tấn Th, Trương Quang Đ, Nguyễn An Ph do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an thị xã Phú Mỹ đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 750.000 đồng (bảy trăm năm mươi ngàn).

Đối với đối tượng tên Lâm; Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phú Mỹ tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào có kết quả sẽ xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số 54/CT-VKSPM ngày 28 tháng 02 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu đã truy tố Đinh Văn S và Võ Ngọc H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị:

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s, r khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Đinh Văn S từ 08 đến 09 năm tù.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s, r khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Võ Ngọc H từ 07 đến 08 năm tù.

Về hình phạt bổ sung không áp dụng.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy toàn bộ chất ma túy bị thu giữ, tịch thu sung quỹ Nhà nước điện thoại di động thu giữ của bị cáo S, trả lại điện thoại di động thu giữ của bị cáo H.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Các bị cáo không có ý kiến gì về luận tội của kiểm sát viên. Các bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1. Về tố tụng:

Vụ án không thuộc trường hợp tạm đình chỉ hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Trong quá trình điều tra, truy tố; Cơ quan điều tra, điều tra viên, Viện kiểm sát, kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, các tài liệu, chứng cứ được thu thập đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi cũng như quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

2. Về tội danh và điều luật áp dụng:

Lời khai nhận tội tại phiên tòa của các bị cáo S và H là phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và lời khai của người mua ma túy, Kết luận giám định cũng như các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa, từ đó đủ cơ sở kết luận: Trong ngày 28/11/2018, các bị cáo S và H đã nhiều lần bán trái phép chất ma túy cho Phạm Tấn Th. Lần thứ nhất vào khoảng 10 giờ, S bán 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng. Lần thứ 2 vào khoảng 17 và lần thứ 3 vào khoảng 23 giờ, mỗi lần Sang đưa cho Hùng 01 gói ma túy để H giao cho Th, sau đó H nhận tiền từ Th mang vào đưa lại cho S.

Bị cáo S 03 lần bán trái phép chất ma túy, bị cáo H 02 lần bán trái phép chất ma túy. Do đó, hành vi của các bị cáo S và H thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 như cáo trạng Viện kiểm sát truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

3. Hành vi phạm tội của các bị cáo S và H là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy; xâm phạm trật tự an toàn xã hội và gây ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống. Do đó đối với các bị cáo cần phải xử lý thật nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

4 Các bị cáo S và H cùng nhau cố ý thực hiện một tội phạm nên các bị cáo là đồng phạm với nhau. Giữa các bị cáo không có sự câu kết chặt chẽ nên các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn. Để có cơ sở quyết định hình phạt cần xem xét vai trò và mức độ tham gia của từng bị cáo.

Bị cáo S là người đi mua ma túy về phân nhỏ rồi rủ rê bị cáo H cùng tham gia bán ma túy với mình. Bản thân bị cáo S cũng 01 lần trực tiếp bán ma túy cho Thành.

Đối với bị cáo H, khi được bị cáo S rủ rê thì đồng ý ngay. Bị cáo H nhận ma túy từ Sang đi giao cho Th rồi nhận tiền từ Th về đưa lại cho S

Vì vậy trong vụ án này, bị cáo S phải chịu trách nhiệm chính với vai trò người khởi xướng, rủ rê và người thực hành. Bị cáo H chịu trách nhiệm sau bị cáo S với vai trò người thực hành; mức án đối với bị cáo S phải cao và nghiêm khắc hơn mức án đối với bị cáo H.

4. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo S đã bị kết án về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, chưa được xóa án tích thì lại cố ý thực hiện tội phạm nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo tự khai nhận hành vi phạm tội trước đó. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 cần áp dụng cho hai bị cáo.

5. Về hình phạt bổ sung:

Các bị cáo S và H là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền.

6. Về xử lý vật chứng:

01 bì thư niêm phong số 336 ngày 10/12/2018 bên trong có chứa thành phần chất ma túy Methamphetamine và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy cần tịch thu tiêu hủy. Điện thoại di động hiệu Nokia RM-1133 là phương tiện để bị cáo S liên hệ việc mua bán ma túy nên tịch thu sung quỹ Nhà nước. Điện thoại di động hiệu Nokia TA-1034 là tài sản hợp pháp của bị cáo H không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo H.

7. Về án phí:

Các bị cáo S và H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Đinh Văn S (B) và Võ Ngọc H (C) phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm r, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Đinh Văn S (B) 09 (chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 29/11/2018.

2. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Võ Ngọc H (C) 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 29/11/2018.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ chất ma túy Methamphetamine trong 01 (một) bì thư niêm phong số 336 ngày 10/12/2018 có chữ ký và mộc dấu của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia RM- 1133, màu đen, đã cũ, có pin, có sim, số Imei: 358906079723249, hiện tại máy không hoạt động được.

Trả lại cho bị cáo Võ Ngọc H (C) 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia TA-1034, màu đen, đã cũ, có pin, có sim, số Imei: 353408095700439, hiện tại máy không hoạt động được.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 07/3/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Phú Mỹ).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Bị cáo Đinh Văn S (B) phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn). Bị cáo Võ Ngọc H (C) phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn).

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; các bị cáo được quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2019/HS-ST ngày 05/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:46/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về