TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
BẢN ÁN 46/2019/HS-ST NGÀY 03/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 03 tháng 04 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 39/2019/HSST ngày 28 tháng 02 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2019/HSST-QĐXX ngày 21 tháng 03 năm 2019, đối với bị cáo:
Lê Minh S (tên gọi khác: P), sinh ngày 05/12/1997, tại tỉnh B; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: số.. đường T, phường B, thành phố V, tỉnh B; Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ văn hoá: 6/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Con ông Lê Minh P và bà Hoàng Thị Kim N; Sống như vợ chồng với Trần Thị Cẩm T và Nguyễn Thị Mộng T có 02 con sinh năm 2013 và 2018; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 16 tháng 11 năm 2018, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Vũng Tàu. (Có mặt)
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Hoàng Thị Phương C, sinh năm 1992; Hộ khẩu thường trú tại số … đường T, phường B3, thành phố V, tỉnh B. (Vắng mặt).
2. Anh Thi Minh T, sinh năm 1986; Hộ khẩu thường trú tại số số … đường T, phường B, Quận K, thành phố H. (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lúc 14h30’ ngày 16/11/2018, trước nhà số 171 Võ Thị Sáu, phường Thắng Tam, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, lực lượng phòng chống ma túy và tội phạm Đồn Biên phòng Chí Linh-Bộ đội Biên phòng tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu kiểm tra, bắt quả tang Lê Minh S đang tàng trữ 01 gói nylon hàn kín, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, bị cáo S khai là ma túy tổng hợp (MTTH), loại Hàng đá, S mua với giá 200.000đ của thanh niên tên Mập không rõ lai lịch ở khu vực Xóm Lăng, phường Thắng Nhì, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; đồng thời cơ quan điều tra thu giữ của S: 01 điện thoại hiệu Nokia kèm theo 02 sim số 0898762752 và 0772225910; 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) và 01 xe mô tô hiệu Honda loại Vision biển số 59C2-261.12.
Tại Bản kết luận giám định số: 321/GĐMT-PC09 (Đ4) ngày 19 tháng 11 năm 2018 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu kết luận:
- Mẫu chất kết tinh không màu - trong suốt chứa trong 01 (một) gói nylon hàn kín, được niêm phong trong một phong bì màu trắng, có hình dấu của Đồn Biên phòng Chí Linh-Bộ đội Biên phòng tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cùng các chữ ký ghi họ tên: Đại úy Nguyễn Đình C, Lê Minh S, Phùng Văn H, Lê Văn L, Phan Văn P gửi đến giám định có khối lượng 0,45646 gam, là chất ma túy, loại Methamphetamine.
Đối với người thanh niên tên M ở khu vực Xóm Lăng, phường Thắng Nhì, thành phố Vũng Tàu bán ma túy cho S, do không rõ lai lịch, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ sẽ xử lý sau.
Đối với chiếc xe mô tô hiệu Honda loại Vision biển số 59C2-261.12, qua điều tra xác định: Anh Thi Minh T đứng tên chủ sở hữu. Năm 2017, anh T đã bán chiếc xe trên với giá 10.000.000đ cho chị Hoàng Thị Phương C, việc mua bán S tay, chưa làm thủ tục tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ngày 16/11/2018 chị C cho S mượn xe đi công việc. Chị C không không biết và không liên quan đến việc tàng trữ trái phép chất ma túy của S nhưng do chị C làm mất giấy đăng ký xe mô tô trên nên Cơ quan CSĐT Công an thành phố Vũng Tàu đã chuyển giao xe đến C cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu quản lý.
Quá trình điều tra, bị cáo S đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.
Bản cáo trạng số 50/CT-VKS ngày 26-02-2019, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố bị cáo Lê Minh S, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa:
Bị cáo Lê Minh S đã khai nhận về toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo. Bị cáo đã thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, tỏ ra ăn năn, hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo Lê Minh S, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Lê Minh S từ 12 đến 15 tháng tù. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma tuý là tang vật vụ án; trả lại điện thoại hiệu Nokia kèm theo 02 sim số 0898762752 và 0772225910 và 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng). Trả lại 01 xe mô tô hiệu Honda loại Vision biển số 59C2-261.12 cho chị Hoàng Thị Phương C. Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không phạt tiền đối với bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Lê Minh S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tôi của mình đúng như nội dung cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với Biên bản phạm tội quả tang lập vào hồi 14 giờ 45 phút ngày 16 tháng 11 năm 2018 của Đồn Biên phòng Chí Linh tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Đối chiếu lời khai nhận của bị cáo và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là hoàn toàn phù hợp, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác đinh: Lê Minh S có hành vi tàng trữ 0,45646 gam, là chất ma túy, loại Methamphetamine để sử dụng. Hành vi nêu trên của bị cáo Lê Minh S đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.
Đối với đối tượng bán ma túy cho bị cáo, do chưa xác định được lai lịch nên đề nghị Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng đối với hành vi phạm tội của bị cáo: Xét tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra là nguy hiêm cho xã hội; đã xâm phạm đến quyền quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy; gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội nên cần phải xử lý nghiêm, áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm đối với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục riêng để bị cáo sớm trở thành công dân tốt và răn đe, phòng ngừa chung về tội phạm xã hội.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo sử dụng ma túy, không xác định được thu nhập và tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng vụ án:
- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy là tang vật vụ án;
- Hoàn trả lại cho bị cáo 01 điện thoại hiệu Nokia kèm theo 02 sim số 0898762752; 0772225910 và 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) vì không liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội của bị cáo.
- Đối với chiếc xe mô tô hiệu Honda loại Vision biển số 59C2-261.12 do anh Thi Minh T đứng tên chủ sở hữu, anh T xác nhận đã bán bằng giấy tờ tay cho chị Huỳnh Thị Phương C. Do chị Chi làm mất giấy đăng ký xe mô tô trên nên cơ quan Công an thành phố Vũng Tàu đã chuyển giao xe đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu quản lý. Chị C xác định không biết, không liên quan đến việc tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo S và đã có đơn yêu cầu được nhận lại tài sản. Do đó, hoàn trả lại chiếc xe nói trên cho chị C là phù hợp.
[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự.
1.1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Minh S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
1.2. Xử phạt: Bị cáo Lê Minh S 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 16 tháng 11 năm 2018.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điêu 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong số: 321/GĐMT-PC09 (Đ4) ngày 19 tháng 11 năm 2018 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.
- Hoàn trả lại cho bị cáo 01 điện thoại hiệu Nokia kèm theo 02 sim số 0898762752; 0772225910.
- Hoàn trả lại cho bị cáo 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu tiền số 0002011 ngày 07 tháng 03 năm 2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Vũng Tàu.
- Hoàn trả lại xe mô tô hiệu Honda loại Vision biển số 59C2-261.12 cho chị Huỳnh Thị Phương C. Chị C, anh T có quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục chứng nhận đăng ký xe theo quy định.
Toàn bộ vật chứng nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu đang quản lý theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 89/BB.THA ngày 07 tháng 03 năm 2019.
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Lê Minh S phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng).
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt thơi hạn 15 ngày được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.
Bản án 46/2019/HS-ST ngày 03/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 46/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/04/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về