Bản án 46/2018/HSPT ngày 30/05/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 46/2018/HSPT NGÀY 30/05/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 30 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở TAND tỉnh Phú Yên xét xử công khai phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 27/HSPT/2018 ngày 08/3/2018 do có kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại đối với đối với bản án hình sự sơ thẩm số 02/2018/HSST ngày 06/02/2018 của Tòa án nhân dân huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.

Bị cáo bị kháng cáo:

Trần Văn M - sinh năm 1985. Trú tại: Thôn Xóm C, xã A, huyện T, tỉnh Phú Yên; trình độ: 05/12; Nghề nghiệp: Làm biển. Cha: Trần Văn T, mẹ: Nguyễn Thị H, vợ: Võ Thị Mỹ N. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại, có mặt.

Người bào chữa: Ông Trần Danh T – Luật sư Văn phòng luật sư P, đoàn luật sư tỉnh Phú Yên, có mặt.

Người đại diện hợp pháp của bị hại có kháng cáo: Anh Võ Ngọc S, sinh năm 1982; Trú tại: Khu phố P, Phường 9, thành phố T, Phú Yên, có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự: Luật sư Trần Như T - Luật sư Văn phòng luật sư D, đoàn luật sư tỉnh Phú Yên, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 31/01/2017, Trần Văn M không có giấy phép lái xe trực tiếp điều khiển xe mô tô 78H1-038.29 trên đường ĐT649 từ thôn Xóm C, xã A đến thôn Đ, xã A. Khi đến đoạn đường thuộc Km 10+200 đường ĐT649 thuộc thôn Đ, xã A; Trần Văn M điều khiển xe 78H1-038.29 va chạm vào trục trước bánh xe bên phải của xe mô tô 78H8 - 8386 do ông Võ Ngọc L, điều khiển hướng ngược lại. Hậu quả làm ông Võ Ngọc L chết tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Yên.

Giám định pháp y ông Võ Ngọc L chết do chấn thương sọ não.

Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2018/HSST ngày 06/02/2018 của TAND huyện Tuy An tuyên bố bị cáo Trần Văn M phạm tội:Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, áp dụng điểm a khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1, 2 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự.

Phạt: Trần Văn M - 01 năm 03 tháng tù, tính từ ngày bắt thi hành án.

Ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại, bị cáo phải bồi thường 134.000.000 đồng, bị cáo đã bồi thường 64.000.000 đồng nên phải tiếp tục bồi thường 70.000.000 đồng do anh Võ Ngọc S đại diện nhận.

Bản án sơ thẩm còn tuyên phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 12/02/2018 ông Võ Ngọc S kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo, tăng mức bồi thường dân sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo trình bày ý kiến xin giảm nhẹ hình phạt, hưởng án treo.

- Đại diện hợp pháp của bị hại - Võ Ngọc S trình bày: Đề nghị tòa tăng hình phạt đối với bị cáo do bị cáo không thành thật, chưa ăn năn hối cải trong việc thực hiện lời thỏa thuận bồi thường.

- Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.

 - Người bào chữa – Luật sư Trần Danh T ý kiến: Người bào chữa cho rằng mức án đối với bị cáo như cấp sơ thẩm tuyên phạt là quá nặng, quá nghiêm khắc, nguyên nhân xảy ra tai nạn do bị hại sử dụng bia rượu vượtn ồng độ cồn trong máu dẫn đến không làm chủ tay lái, lái xe loạng choạng, không dứt khoát, lái xe sang phần đường của bị cáo, khi bị cáo né tránh bị hại thì bị hại lại lái xe trở lại phần đường của mình dẫn đến bị cáo né tránh không kịp gây ra tai nạn; hoàn cảnh bị cáo khó khăn là lao động chính trong gia đình, bị cáo là người dân lao động chân tay trình độ học vấn thấp không an hiểu pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng án treo thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự - Luật sư Trần Như T ý kiến: Bản án sơ thẩm nhận định bị hại có lỗi của bị hại trong vụ án này để xác định có lỗi hỗn hợp trong việc xảy ra tai nạn là không đúng, bị hại sử dụng bia rượu chỉ là vi phạm hành chính và bị hại vẫn đi đúng phần đường của mình, không lấn sang phần đường của bị cáo nên không có cơ sở giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và hưởng án treo mà có căn cứ để tăng hình phạt đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu xin giảm hình phạt, hưởng án treo của bị cáo mà cần tăng hình phạt đối với cáo do mức hình phạt đối với bị cáo là nhẹ chưa tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, về dân sự cấp sơ thẩm đã xem xét đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần này.

Căn cứ vào các tài liệu và chứng cứ co tại hồ sơ vụ án, đã được xét hỏi kiểm tra toàn diện đầy đủ, căn cứ vào việc nghe quan điểm giải quyết vụ án của kiểm sát viên và ý kiến tranh tụng tại phiên tòa cảu bị cáo, đại diện bị hại, người bào chữa, Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tại phiên toà bị cáo đã khai nhận hành vi như trên, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đủ cơ sơ kết luận như bản án sơ thẩm tuyên bị cáo phạm tội:Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, áp dụng điểm a khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự để xử lý bị cáo là đúng.

Bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo, đã xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, áp dụng điểm b, p khoản 1,2 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự 1999 (điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 BLHS2015) phạt bị cáo 01 năm 03 tháng tù là phù hợp, không nhẹ, không nặng. Người bị hại kháng cáo, nhưng không chứng minh có tình tiết mới, nên giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Về dân sự: Bị cáo và người đại diện bị hại đã thỏa thuận bồi thường 143.000.000 đồng là phù hợp. Đại diện bị hại yêu cầu tăng, nhưng không nêu lý do, tăng khoản nào và tại phiên tòa thể hiện chấp nhận thỏa thuận mức bồi thường như cấp sơ thẩm tuyên. Không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đối với số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng tại Biên lai thu số: 0007239 ngày 05/03/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuy An do ông Võ Ngọc S nộp, tuyên trả lại cho ông Võ Ngọc S, theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Bị cáo không phải chịu án phí.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Văn M phạm tội:Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự 1999, điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 BLHS2015.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự: Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Phạt: Trần Văn M - 01 năm 03 tháng tù, tính từ ngày bắt thi hành án. Về dân sự: Áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự; Điều 590 Bộ luật Dân sự. Ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại, bị cáo phải bồi thường 134.000.000 đồng, bị cáo đã bồi thường 64.000.000 đồng nên phải tiếp tục bồi thường 70.000.000 đồng do anh Võ Ngọc S đại diện nhận.

Áp dụng điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án - Trả lại cho ông Võ Ngọc S 300.000 đồng theo Biên lai thu số: 0007239 ngày 05/03/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuy An.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

330
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2018/HSPT ngày 30/05/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:46/2018/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về