Bản án 46/2018/HNGĐ-ST ngày 10/10/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 46/2018/HNGĐ-ST NGÀY 10/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 

Ngày 10 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 113/2019/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 7 năm 2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 9 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Duy Q, sinh năm 1975.

- Bị đơn: Chị Vũ Thị M, sinh năm 1979.

Đu trú tại: thôn H, xã, huyện K, tỉnh Thái Bình.

(Anh Q, chị M xin vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu chứng cứ đã xuất trình thì nguyên đơn anh Nguyễn Duy Q có yêu cầu khởi kiện và trình bày như sau:

1 - Về quan hệ hôn nhân: anh và chị M tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình vào ngày 20/01/1999. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chung sống hạnh phúc đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do chị M đánh đề, chơi hụi, nợ nần không có tiền trả, đã bỏ nhà đi làm để lấy tiền trả nợ. Anh phải gửi con cho bà nội trông nom để đi làm lấy tiền nuôi con. Vợ chồng anh đã sống ly thân 07 năm, nay anh xét thấy không thể đoàn tụ được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị M .

- Về quan hệ con chung: anh và chị M có 03 con chung là Nguyễn Thị Lan A, sinh ngày 12/11/1999 hiện nay đã đi học đại học, Nguyễn Thị U, sinh ngày 26/3/2005 và Nguyễn Thị Ngọc H, sinh ngày 30/01/2011. Sau ly hôn anh có nguyện vọng nuôi 02 con Uyên và H, không yêu cầu chị M cấp dưỡng nuôi con.

- Về quan hệ tài sản, nợ chung: Không yêu cầu tòa án giải quyết.

* Bị đơn là chị Vũ Thị M viết bản tự khai, nội dung: Chị và anh Q kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình vào ngày 20/01/1999. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình mẹ chồng. Quá trình chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do khó khăn về kinh tế, vay mượn, công nợ nhiều dẫn đến vợ chồng xảy ra cãi nhau rồi chị ra đi từ ngày 16/11/2012 làm giúp việc ở Hà Nội để lấy tiền trả nợ, anh Q cũng đi miền nam làm ăn, từ đó vợ chồng không liên lạc, quan tâm gì tới nhau. Nay anh Q làm đơn ly hôn thì chị cũng đồng ý ly hôn vì tình cảm vợ chồng không còn.

Về con chung: Vợ chồng chị có 03 con chung là Nguyễn Thị Lan A, sinh ngày 12/11/1999, Nguyễn Thị U, sinh ngày 26/3/2005 và Nguyễn Thị Ngọc H, sinh ngày 30/01/2011. Sau ly hôn chị có nguyện vọng nuôi con L hiện nay đã đi học đại học cháu khỏe mạnh, còn anh Q nuôi 02 con Uyên và H .

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu tòa án giải quyết.

* Kết quả thu thập chứng cứ của Tòa án:

- Qua xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Q ngày 08/10/2019 cán bộ đại diện cho đoàn thể, đại diện chính quyền cung cấp cho biết: Anh Q và chị M và các con có hộ khẩu thường trú tại xã Q . Anh chị Q M kết hôn tại xã Q vào ngày 20/01/1999, sau kết hôn anh chị chung sống ở địa phương một thời gian rồi đi làm xa, chị M đi làm ở Hà Nội còn anh Q đi làm ở miền nam. Vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do bất đồng về kinh tế, vợ chồng xa nhau nên tình cảm bị rạn nứt. Nay anh Q xin ly hôn xét thấy khả năng đoàn tụ là thấp, nên đề nghị Tòa án căn cứ vào nguyện vọng của các bên để cho ly hôn.

Về con chung của anh Q và chị M nên giao cả 02 con U và H cho anh Q nuôi dưỡng vì hiện tại các cháu đang có cuộc sống ổn định, điều kiện sống tốt.

Về nợ chung: Anh Q và chị M không có nợ các quỹ hội của tập thể, địa phương, còn nợ cá nhân thì địa phương không rõ.

- Tòa án tiến hành lấy lời khai của các cháu Nguyễn Thị U, sinh ngày 26/3/2005 và Nguyễn Thị Ngọc H, sinh ngày 30/01/2011 về nguyện vọng của các cháu muốn ở với bố hay mẹ khi bố mẹ ly hôn, thì các cháu đều có nguyện vọng muốn được ở với bố.

* Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn đã thực hiện quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình xử cho anh Q được ly hôn chị M; Về con chung: Giao cho anh Q trực tiếp nuôi cả 02 con là Nguyễn Thị U, sinh ngày 26/3/2005 và Nguyễn Thị Ngọc H, sinh ngày 30/01/2011. Chấp nhận đề nghị của anh Q là không yêu cầu chị M cấp dưỡng cho con; Về tài sản chung: Anh Q và chị M đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra giải quyết; Về án phí: anh Q phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, hội đồng xét xử nhận định:

[I] Về pháp luật tố tụng:

[1] Anh Q và chị M có đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Thái Bình theo quy định tại Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự. Anh Q và chị M đều có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa, vì vậy Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Q và chị M là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự. Vụ án chỉ có nguyên đơn và bị đơn, họ đều vắng mặt nên phiên tòa được tiến hành theo thủ tục quy định tại điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành xác minh tại Uỷ ban nhân dân xã Q và thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rõ tình trạng hôn nhân và địa chỉ cư trú của nguyên đơn, bị đơn vì vậy Viện kiểm sát tham gia phiên tòa là đúng với quy định tại Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.

[II] Về pháp luật nội dung:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân của anh Q và chị M có chứng nhận kết hôn của cơ quan có thẩm quyền, đó là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống của vợ chồng không được hạnh phúc do bất đồng trong kinh tế gia đình. Đến nay cả hai vợ chồng đều xác định tình cảm vợ chồng không còn. Như vậy chứng tỏ hôn nhân giữa anh Q và chị M đã lâm vào tình trạng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần giải quyết cho anh Q và chị M được ly hôn là phù hợp với quy định tại điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2] Về quan hệ con chung: Cháu Nguyễn Thị Lan A, sinh ngày 12/11/1999 đã trên 18 tuổi không phải giao cho bố hoặc mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Nên giao cho anh Q trực tiếp nuôi 02 con là Nguyễn Thị U, sinh ngày 26/3/2005 và Nguyễn Thị Ngọc H, sinh ngày 30/01/2011 là phù hợp với với quy định tại điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, anh Q không yêu cầu chị M cấp dưỡng cho con là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật nên được chấp nhận.

[3] Về tài sản chung: Anh Q và chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Tòa án không đặt ra giải quyết.

[4] Về án phí: Anh Q phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ vào Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Nguyễn Duy Q được ly hôn với chị Vũ Thị M .

2. Về con chung:

- Giao cho anh Q trực tiếp nuôi 02 con là Nguyễn Thị U, sinh ngày 26/3/2005 và Nguyễn Thị Ngọc H, sinh ngày 30/01/2011, chấp nhận việc anh Q không yêu cầu chị M cấp dưỡng cho con.

- Chị M có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Anh Q phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm anh Q đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0001366 ngày 15/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Anh Q đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáoÁn xử công khai, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2018/HNGĐ-ST ngày 10/10/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:46/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Xương - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về