TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 457/2021/HSST NGÀY 20/09/2021 VỀ TỘI BẮT, GIỮ NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT VÀ CƯỚP TÀI SẢN
Ngày 20 tháng 9 năm 2021, tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 311/2021/TLST-HS, ngày 04 tháng 6 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 305/2021/QĐXXST- HS ngày 23 tháng 6 năm 2021, đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Thành Tr, tên gọi khác: Không. Sinh ngày 25/5/1992. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 11, phường T, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Bắc T, đã chết và bà Đoàn Thị L; Vợ là Hoàng Thị Bích D, đã ly hôn; Có 01con; Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân:
+ Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 04/QĐ-XPHC ngày 07/11/2007 của Công an phường T, thành phố TN xử phạt vi phạm hành chính hình thức “Cảnh cáo” về hành vi “Đánh nhau”.
+ Tại Quyết định số 666/QĐ-XPHC ngày 10/6/2009, Công an phường Trưng Vương, thành phố Thái Nguyên xử phạt vi phạm hành chính số tiền 75.000 đồng về hành vi “Dùng thủ đoạn gian dối bỏ trốn chiếm đoạt tài sản”. Đã nộp phạt ngày 15/6/2009.
Hiện bị cáo đang bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú (bị tạm giữ từ ngày 08/11/2020 đến ngày 14/11/2020). Có mặt tại phiên tòa.
2. Nguyễn Hoàng H, tên gọi khác: Nguyễn Mạnh H5. Sinh ngày 15/10/1992. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 12, phường P, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Đ và bà Hoàng Thị Y; Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân:
+ Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 31/QĐ-XPHC ngày 14/02/2011 của Công an phường P, thành phố TN xử phạt hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi vi phạm hành chính “Sử dụng các loại đồ chơi nguy hiểm bị cấm”. Đã nộp phạt ngày 15/02/2011.
+ Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 19572/QĐ-XPHC ngày 23/8/2018 của Công an thành phố Thái Nguyên xử phạt vi phạm hành chính số tiền 2.500.000 đồng về hành vi “Xâm hại sức khỏe của người khác”. Đã nộp phạt ngày 27/8/2018.
Hiện bị cáo đang bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú (bị tạm giữ từ ngày 08/11/2020 đến ngày 14/11/2020). Có mặt tại phiên tòa.
3. Nguyễn Quang H1, tên gọi khác: Không. Sinh ngày 25/6/1992. Nơi ĐKHKTT: Xóm N, xã B, thành phố SC, tỉnh Thái Nguyên; Nơi ở: tổ 01, phường T, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn D và bà Đoàn Thị T1; Vợ là Hoàng Thị Th; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. Có mặt tại phiên tòa.
* Bị hại:
1. Chị Lê Hương T3, sinh năm 1994. (04 lần vắng mặt không có lý do).
HKTT: Tô 10, phương T, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên.
2. Anh Ngô Thiên V, tên thương goilà Giang V, sinh năm 1994. Có mặt HKTT: Tô 10, phương T, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên.
Hiện đang chấp hành án tại trại giam Vĩnh Quang, tỉnh Vĩnh Phúc
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Đoàn Thị L, sinh năm 1967. Có mặt.
2. Anh Đào Quốc H, sinh năm 1978. Có mặt HKTT: Tô 11, phương T, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên.
* Người làm chứng:
1. Anh Vũ Đức H3, sinh năm 1981, vắng mặt HKTT: Tô 04, phương T, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên.
2. Bà Dương Thị H4, sinh năm 1961, vắng mặt HKTT: Xóm Phố T, xã Y, huyên P, tỉnh Thái Nguyên
3. Anh Phạm Minh S, sinh năm 1992. Có mặt HKTT: Xóm Đ, xã H, huyên ĐH, tỉnh Thái Nguyên
4. Ông Lê Manh Ch, sinh năm 1960, vắng mặt HKTT: Tô 10, phương T, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng tháng 7/2020, chị Lê Hương T3 có vay của Nguyên Thanh Tr sô tiên khoang 16.000.000 đông. Sau đo , bô cua chị T3 là ông Lê Manh Ch (sinh năm 1960, HKTT: Tô 10, phương T , thành phố TN) có trả cho Tr được 3.000.000 đông, chị T3 cũng đã trả được một phần và còn nợ lại số tiền 7.000.000 đông. Đồng thời, bạn trai của chị T3 là anh Ngô Thiên V (tên thương gọi là Giang V) cũng vay của Tr 02 lân vơi tông sô tiên 10.000.000 đông, Anh V đa tra được 3.000.000 đồng, còn nợ lại số tiền 7.000.000 đông. Do anh V và chị T3 nơ tiên chưa tra va không liên lac đươc băng điên thoai nên vao khoang 11 giờ 30 phút ngay 07/11/2020, Tr đa ru Nguyên Hoang H (thương goi la H beo) là bạn cùng kinh doanh tại quầy “Văn phong giao dich bât đông san Thanh Tr, tư vân tai chinh , mua ban xe may” tai s ố nhà 01, ngõ 378, đương Ga Thai Nguyên, thuôc tô 15, phương Quang Tr, thành phố Thai Nguyên (do Tr đưng tên đăng ky kinh doanh ) đi tim chị T3 và anh V để đòi nợ , H beo đông y . Tr điêu khiên xe mô tô nhan hiêu Honda SH , màu xanh , BKS: 20B2-156.56 chơ H béo đi vê hương khu vưc phương Thịnh Đan, thành phố Thai Nguyên . Đồng thời , khi băt đâu đi ra khoi quây, Tr có gọi điện thoại cho Nguyễn Quang H1 (thương gọi là “ H1 Toán”) để rủ đi tìm anh V và chị T3 đòi nợ do chị T3 cũng đang nợ của H1 Toán 3.000.000 đồng nhưng chưa trả, H1 Toán đông y. Tr và H beo đi vào khu vực đối diện cổng trường Cao đẳng y tế Thái Nguyên đợi H1 Toán. Khoảng 05 phút sau thì H1 Toán điêu khiên xe mô tô nhan hiê u SH, màu xanh , BKS: 20B1 – 640.23 đi môt minh tới . Sau đo , cả 03 đi vao nha tro Hương Phương thuôc tô 01, phương T, thành phố TN nơi chị T3 và anh V đang thuê tro. Khi đên nơi, Tr và H1 Toán đô xe ơ bên ngoai công cua khu tro rôi ca 03 cùng đi bô vao bên trong khu tro đê tim phong mà chị T3 và anh V thuê. Sau khi hoi va biêt đươc chị T3 ở phòng 104 thì Tr đến gõ cửa, chị T3 vưa mơ cưa ra thi Tr đây chị T3 vào phòng và dùng tay phải tát 02 cái vào mặt của chị T3, đẩy chị T3 ngã xuông giương . Khi đo anh V đang năm trên giương trong phòng . H beo và H1 Toán lân lươt đi phía sau Tr vào trong phòng . Khi Tr vưa tat va đây chị T3 ngã xuông giương , H1 Toán vào phòng liền nhảy lên giườn g dung chân đap vao ngươi chị T3và dùng tay tát vào mặt chị T3. Tr và H beo lao vao dung tay đâm vào vùng lưng, bụng và vùng đầu của anh V, vưa đanh anh V , chị T3 thì Tr, H1 Toán và H beo vưa chưi bơi anh V và chị T3 vê viêc nơ tiên không tra , gọi điện thoại không nghe máy và yêu cầu anh V và chị T3 trả nợ. H béo nói “tiền nong của tao thế nào”, Tr, H1 Toán nói “Chung may co tra tiên cho tao không” , “bây giờ chúng mày quay tiền trả tao đi” thi anh V trả lời “Cho em 15 phút để em gọi ngươi mang tiên đên tra cho anh” . Sau khi đanh chị T3, H1 Toán tiêp tuc quay sang cung Tr và H beo dùng chân tay đánh anh V còn chị T3 chạy được ra ngoài nhưng ngay sau đo lai bi H1 Toán đuôi theo tum toc chị T3 lôi vao trong phong. Khi đang đanh anh V thì H beo quan sat thây phia goc phong canh nha vê sinh có một chiếc ô màu đỏ mận, dài khoảng 01 mét nên đã lấy chiếc ô trên cầm bằng tay phai va vut 03 phát vào vùng lưng , tay va đâu cua anh V. Thây xay ra sư viêc trên, anh Vũ Đức H 3 là người trọ cùng khu trọ , bà Dương Thi H4 là người quản lý khu trọ có đi đến phòng của chị T3. Anh H3 hỏi thì Tr trả lời “Nó nợ tiên em”, vì không muốn làm ảnh hương đên khu tro nên anh H3 nói “Việc gì thì các em ra ngoài giải quyết , đưng đanh nhau ơ đây gây mât trât tư” . Sau khi nghe nói vậy thì Tr bảo với anh V và chị T3 “Đi ra ngoai nay” , còn H beo nói với Tr và H1 Toán “Đưa no vê quây” rôi H beo yêu câu anh V và chị T3 đi giay dep đê đi ra ngoai. Tr và H1 Toán đi ra hanh lang cua day tro đưng đơi con H beo đưng trươc cửa phong đơi . Môt luc sau , do đơi lâu không thây anh V và chị T3 đi ra nên H1 Toán cùng Tr và H beo quay lai phong cua chị T3, H1 Toán dùng tay phải túm tóc chị T3 kéo ra khỏi phòng và đẩy chị T3 đi ra ngoai, chị T3 đi trước, H1 Toán đi sau tiếp theo là đến Tr, còn H beo yêu câu anh V ra khoi phong va dùng tay phải đẩy liên tiếp vào lưng anh V để anh V đi ra ngoai, H beo đây lưng anh V cho đến khi đi ra đên ngoai công canh chô Tr và H1 Toán để xe rồi H béo dùng tay đóng cổng lại.
Khi ra công nha tro , anh V có xin Tr gọi điện thoại cho n gươi nha đê nhơ mang tiên đên tra thi Tr đông y va cho anh V gọi điện thoại. Tuy nhiên, sau khi anh V gọi điện thoại cho người nhà nhưng không mượn được tiền thì Tr đa dung chân phai đa , dùng hai tay đấm vào vùng mặt , đâu c ủa anh V. Do bị đánh nên anh V bỏ chạy ra cách chỗ Tr để xe khoảng 3m-4m thì dừng lại, Tr và H béo đi ra đứng gần anh V nhưng không đánh. Anh V tiếp tục xin được gọi điện cho người nhà mang tiền đến nhưng do thấy anh V không gọi được cho ai để vay tiền nên Tr có bảo anh V “Thôi bây giơ cư đi vê quây may goi ai mang tiên đên trả thì bảo mang đến quầy” , đông thơi, Tr đi ra chô đê xe mô tô , H beo cũng bảo Tr “Thôi cư đi vê quây” rôi yêu câu anh V đi lên xe nhưng anh V không muốn đi. Do thấy anh V chần chừ không muôn đi nên H beo đa dung tay trái keo tay của anh V ra gần chô xe mô tô cua Tr, khi lai gân xe thi H beo dùng tay phải nhâc chân bên phải cua anh V lên đê anh V ngôi lên yên xe, phía sau của Tr còn H béo ngồi phía sau anh V để giữ anh V. Sau đo, Tr điêu khiên xe chơ anh V và H beo về quầy Thành Trung. H1 Toán cũng chửi, yêu câu chị T3 lên xe va chơ chị T3 đi về quầy Thành Trung.
Khoảng 12 giờ 15 phút cung ngay , Tr, H beo và H1 Toán đưa anh V và chị T3 vê quây cua Tr tại số nhà 01, ngõ 378, đương Ga thuôc tô 15, phương Quang Tr, thành phố Thai Nguyên . Tại quầy, Tr, H beo, H1 Toán đưa anh V và chị T3 vào trong quầy và để anh chị ngồi tại ghế , lúc này tại quầy còn có Phạm Minh S ngồi chơi điện tử trên máy điện thoại, cửa quầy đóng (không khóa). Tr, H1 Toán tiêp tuc chửi bới , yêu câu anh V, chị T3 tìm cách vay tiền trả nợ thì mới cho về nên anh V xin goi điên cho người nhà để vay tiền thì Tr đồng ý cho Anh V mượn điện thoại. Anh V gọi điện cho cậu của mình là anh Đào Quốc H (Sinh năm 1978, HKTT: Tổ 11, phường T, thành phố TN) thì vay được số tiền 1.000.000 đồng, anh V có nhờ cậu mình nói chuyện với Tr xin khất nợ và không đánh nữa. Tr nói chuyện điện thoại với anh Đào Quốc H thì Tr đồng ý không đánh anh V nữa, tuy nhiên, Tr yêu cầu anh V phải trả trước một nửa số tiền nợ là 3.000.000 đồng thì mới cho về. Sau khi nói chuyện điện thoại xong thì Tr quay ra nói với H1 Toán “cậu nó xin không đánh nó nữa”, H1 Toán đang ngồi tại ghế bất ngờ đứng dậy dung chân đa , tay đâm vao vung măt , người anh V, vừa đánh H1 Toán vừa nói “đấy là cậu mày xin thằng Tr chứ không xin tao” rồi H1 Toán tiêp tuc quay sang dung tay tat vao măt cua chị T3 đồng thời chửi bới, yêu cầu anh V, chị T3 trả nợ và nói cho anh V, chị T3 trong vòng 30 phút nữa phải vay tiền để trả nợ, nếu không H1 Toán sẽ tiếp tục đánh. Lo sợ sẽ bị đánh tiếp nên anh V tiếp tục gọi điện cho câu minh đê hoi vay tiên thì cậu anh V chỉ có 1.000.000 đồng và bảo đến khu vưc Đai hoc Nông Lâm Thai Nguyên lấy tiền . Anh V nói dối đã vay đủ 3.000.000 đồng và xin được đưa đi lấy tiền thì Tr bảo H1 Toán cùng đi với Tr đưa anh V đi lấy tiền.
Khoảng 13 giờ 35 phút cùng ngày, Tr điều khiển xe mô tô BKS: 20B2- 156.56 chở anh V ngồi giữa, H1 Toán ngồi sau đến khu vưc Đai hoc Nông Lâm Thái Nguyên để lấy tiền . H beo ở lại quầy cùng với chị T3 và S . Khi đên nơi , anh V lây 1.000.000 đồng cua anh Đào Quốc H đưa cho Tr, đồng thời xin khất số tiền còn lại, xin ở lại với cậu của mình, không về quầy của Tr nữa thì Tr đồng ý. Sau đo, Tr và H1 Toán trơ vê quây . Tại quầy, Tr tiếp tục yêu cầu chị T3 tìm cách vay tiền để trả nợ nhưng chị T3 không vay được cua ai nên Tr đa bảo sẽ đưa chị T3 vê nha đê noi chuyện với bố chị T3.
Khoảng 14 giờ cung ngay , Tr chơ chị T3còn H1 Toán chở H beo cùng nhau đi đên nha chị T3tại tổ 10, phương T , thành phố TN. Tại đây, Tr găp bô của chị T3 là ông Lê Manh Ch và có nói chuyện với ông Ch vê viêc chị T3 nơ tiên cua Tr, đông thơi Tr yêu câu chị T3 nói chuyện với bố để tìm hướng giải quyêt sô tiên nơ nhưng chị T3 không noi nên Tr đa dung tay phai tat 02 cái vào măt chị T3. Sau khi noi chuyên thi ông Ch đông y se tra tiên cho chị T3 nên Tr điêu khiên xe đưa chị T3 vê lai phong tro chị T3 đang thuê (vì chị T3 nhờ Tr đưa về phòng) rôi quay lai đon H beo, còn H1 Toán đã vê trươc đó.
Sau khi sư viêc xay ra ,hồi 15 giờ 20 phút cùng ngày anh V đa đên Công an phương T, thành phố TN trình báo, đề nghị xử lý các đối tượng theo quy định của pháp luật.
Tại Cơ quan điều tra, anh V, chị T3 khai: Việc anh, chị bị đưa về quầy Thành Tr là do bị ép buộc. Quá trình ở tại quầy anh, chị không dám tự bỏ về vì trong quầy lúc nào cũng có người, tại quầy, anh, chị cũng liên tục bị Tr, H1 Toán chửi, yêu cầu tìm cách trả nợ và cũng bị H1 Toán đánh. Việc anh V gọi điện thoại cho cậu của mình để vay tiền cũng hoàn toàn không tự nguyện, vì anh liên tục bị đánh, chửi yêu cầu trả nợ và sợ sẽ tiếp tục bị đánh nên anh buộc phải xin gọi điện cho cậu là Đào Quốc H để hỏi vay tiền và anh đã vay được 1.000.000 đồng đưa cho Tr.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thành Tr, Nguyễn Hoàng H, Nguyễn Quang H1 khai nhận:03 bị cáo đến phòng trọ của chị T3, Anh V là để đòi nợ, khi đi cả ba không mang theo hung khí gì. Tại phòng trọ của chị T3, các bị cáo đánh anh V, chị T3 mục đích là để chị T3, anh V sợ, phải trả nợ. Mặc dù chị T3, anh V không nợ tiền của H béo nhưng vì H béo là bạn của Tr nên khi được Tr rủ đi đòi nợ thì H béo đồng ý đi theo; khi thấy Tr đánh anh V thì H béo cũng xông vào đánh cùng Tr mục đích là để đòi nợ cho Tr. Khi anh V, chị T3 không có tiền trả nợ, cũng không gọi điện được cho ai để vay tiền trả nợ thì 03 bị cáo mới nảy sinh ý định đưa anh V, chị T3 về quầy Thành Tr giữ tại đó, yêu cầu tìm cách trả nợ mới cho về. Việc anh V, chị T3 phải đi cùng các bị cáo về quầy là hoàn toàn không tự nguyện. Tại quầy, Tr và H1 Toán cũng liên tục chửi yêu cầu anh V, chị T3 phải trả nợ, H1 Toán cũng đã dùng chân tay không đánh anh V, chị T3 là để buộc anh V, chị T3 phải tìm cách trả nợ cho Tr và H1 Toán . Ngoài ra, đối với hành vi H béo dùng ô đánh Anh V tại phòng trọ của chị T3, đây là hành động tự phát của Huy béo, Tr và H1 Toán không chỉ đạo H béo dùng ô đánh anh V. Tr và H1 Toán không đồng tình với việc H béo dùng ô đánh Anh V nhưng do sự việc diễn ra quá nhanh nên không kịp can ngăn, đồng thời khi đó cũng có anh Vũ Đức H3và bà Dương Thị H4 đến can ngăn nên cả 03 bị cáo không đánh anh V, chị T3 nữa.
Vật chứng của vụ án gồm: 1.000.000 đồng tiền do Nguyễn Thành Tr giao nộp. 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA SH, màu xanh, BKS: 20B2-156.56; số khung 7306GY124972, số máy JF73E0125049, đã qua sử dụng do Nguyễn Thành Tr giao nộp. Quá trình điều tra xác định của bà Đoàn Thị L, do Bà Lđã đứng tên trên một xe khác nên để Tr đứng tên trên đăng ký xe này. Vì vậy, bà có đơn xin trả lại chiếc xe trên.
01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS, màu vàng, dung lượng 64GB, số IMEI: 357202092941773, đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 sim số thuê bao 0868.936.678 (do Nguyễn Thành Tr giao nộp); 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS MAX, màu vàng, dung lượng 64GB, số IMEI: 357262094443905, đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 sim số thuê bao 0986.197.698 (do Nguyễn Hoàng H giao nộp); 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA SH, màu xanh, BKS: 20B1-640.23; số khung: 4215DY095811, số máy: JF42E0095951, đã qua sử dụng (do Nguyễn Quang H1 giao nộp). Quá trình điều tra xác định đăng ký xe mang tên Nguyễn Quang H1; 01 chiếc ô, màu đỏ, dài 90cm, có cán bằng gỗ sơn màu nâu, đã qua sử dụng (thu giữ trong quá trình khám nghiệm hiện trường).
Hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng và tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.
Về trách nhiệm dân sự: Trong giai đoạn điều tra anh Ngô Thiên V và chị Lê Hương T3không có yêu cầu đề nghị bồi thường gì. Tuy nhiên, sau đó bị cáo Tr đã tự nguyện bồi thường cho anh V 2.000.000đ, bị cáo Quang H1 và Hoàng H đã tự nguyện bồi thường cho anh V mỗi bị cáo là1.500.000đ. Anh V có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
Tại bản cáo trạng số 317/CT-VKSTPTN ngày 31/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Nguyễn Thành Tr, Nguyễn Quang H1 về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và tội “cướp tài sản” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 157 và Khoản 1 Điều 168 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Nguyễn Hoàng H (tức Nguyễn Mạnh H5) về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và tội “cướp tài sản” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 157 và điểm d Khoản 2 Điều 168 BLHS Tại phiên tòa:
- Các bị cáo Nguyễn Thành Tr, Nguyễn Quang H1, Nguyễn Hoàng H khai do bực tức vì anh V và chị T3 vay tiền nhưng không trả nên 03 bị cáo đã đánh anh V và chị T3, đồng thời bắt giữ anh V và chị T3 về quầy của Tr ở SN 01, ngõ 378, tổ 15, phường Quang Tr, thành phố Thái Nguyên để buộc anh V, chị T3 phải trả tiền. Tr và Quang H1 dùng tay, chân đấm, đá vào người chị T3 và anh V, Hoàng H ngoài dùng tay, chân đấm, đá chị T3 và anh V còn dùng chiếc ô ở phòng trọ chị T3 đánh anh V. Các bị cáo thống nhất với tội danh và khung hình phạt như cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đã truy tố, thừa nhận không có oan, sai. Tại phiên tòa các bị cáo xin lỗi bị hại.
- Bị hại (anh Ngô Thiên V) khai: Anh công nhận lời khai của ba bị cáo là đúng. Anh đã nhận 5.000.000đ tiền bồi thường của các bị cáo, trong đó Tr là 2.000.000đ, Hoàng H và Quang H1 mỗi bị cáo 1.500.000đ. Tại phiên tòa, anh đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho ba bị cáo - Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (bà Đoàn Thị L) khai: chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA SH, màu xanh, BKS: 20B2-156.56 thu giữ của Tr là của bà mua của cửa hàng anh Nguyễn Quang D từ năm 2018 với giá 80.000.000đ, tiền mua xe là của bà. Lý do bà để cho anh Tr đứng tên trên đăng ký xe vì bà đã đứng tên một chiếc xe mô tô khác. Bà không biết Tr sử dụng chiếc xe trên để phạm tội. Bà L đề nghị HĐXX trả lại chiếc xe trên để bà đi lại.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (anh Đào Quốc H2): Đề nghị HĐXX trả lại cho anh 1.000.000đ anh cho anh V mượn để trả cho Tr, sau đó bị cáo Tr đã nộp cho cơ quan điều tra.
- Sau khi kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm nhân dân thành phố Thái Nguyên trình bày bản luận tội giữ nguyên quan điểm như nội dung bản cáo trạng đã truy tố đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành Tr, Nguyễn Quang H1, Nguyễn Hoàng H phạm tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và tội “Cướp tài sản” .
+ Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 157 BLHS; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 BLHS, xử phạt Nguyễn Thành Tr từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”; Áp dụng Khoản 1 Điều 168 BLHS; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 BLHS, xử phạt Nguyễn Thành Tr từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù về tội “Cướp tài sản”.
+ Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 157 BLHS; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 BLHS, xử phạt Nguyễn Quang H1 từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”; Áp dụng Khoản 1 Điều 168 BLHS; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 BLHS, xử phạt Nguyễn Quang H1 từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp tài sản”.
+ Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 157 BLHS; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 BLHS, xử phạt Nguyễn Hoàng H (tức Nguyễn Mạnh H5) từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”; Áp dụng điểm d Khoản 2 Điều 168 BLHS; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 BLHS, xử phạt Nguyễn Hoàng H từ 07 đến 08 năm tù về tội “Cướp tài sản”.
Căn cứ Điều 55BLHS, tổng hợp hình phạt buộc các bị cáo chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
+ Về vật chứng: Áp dụng Điều 47; 48 BLHS; Điều 106BLTTHS - Tịch thu sung quỹ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS, màu vàng, bên trong lắp 01 sim số thuê bao 0868.936.678 của Tr; 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS MAX, màu vàng, dung lượng 64GB, bên trong lắp 01 sim số thuê bao 0986.197.698 của Nguyễn Hoàng H; 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA SH, màu xanh, BKS: 20B1-640.23 của Nguyễn Quang H1.
- Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếc ô, màu đỏ, dài 90cm, có cán bằng gỗ sơn màu nâu, đã qua sử dụng.
- Hoàn trả bà Đoàn Thị L: 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA SH, màu xanh, BKS: 20B2-156.56. Hoàn trả cho anh Đào Quốc H số tiền 1.000.000đ do Tr giao nộp.
+ Án phí: Các bị cáo phải nộp án phí HSST theo quy định.
- Trong phần tranh luận bị cáo không tranh luận, trong lời nói sau cùng các bị cáo chỉ xin HĐXX xem xét cho được hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án, Điều tra viên, Kiểm sát viên khi thực hiện hành vi cũng như ban hành các Quyết định tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án này đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét lời khai nhận của bị cáo là khách quan phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường và những chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Qua đó đã có đủ cơ sở để xác định:
Do anh Ngô Thiên V nợ tiền của Nguyễn Thành Tr, chị Lê Hương T3 nợ số tiền của Tr và của Nguyễn Quang H1 không trả nên khoảng 11 giờ 30 phút ngày 07/11/2020, Tr đã rủ bạn là Nguyễn Hoàng H và Nguyễn Quang H1 đi tìm Anh V và chị T3 để đòi nợ. Tại phòng trọ của anh V, chị T3 tại tổ 1, phường T, thành phố TN, Tr, H1 Toán , H béo đã có hành vi dùng chân, tay không đấm, đá anh V, chị T3, riêng H béo đã dùng 01 chiếc ô màu đỏ sẫm trong phòng của chị T3 đánh anh V, vừa đánh các đối tượng vừa yêu cầu anh V, chị T3 phải trả nợ. Do anh V, chị T3 không có tiền để trả nợ nên các đối tượng đã có hành vi túm tóc, kéo, đẩy bắt anh V, chị T3 đi về văn phòng giao dịch bất động sản Thành Tr tại tổ 15, phường Quang Tr, thành phố Thái Nguyên trái với ý muốn của anh V, chị T3 để tiếp tục giải quyết việc nợ nần. Khoảng 12 giờ 15 phút cùng ngày, khi về tới văn phòng giao dịch bất động sản Thành Tr thì Tr và Quang H1 tiếp tục chửi bới, yêu cầu anh V, chị T3 tìm cách vay tiền trả nợ thì mới cho về. Quang H1 có hành vi dùng chân tay không đấm, đá anh V và tát 02 cái vào mặt chị T3. Khoảng 13 giờ 35 phút cùng ngày, Anh V đã gọi điện thoại cho cậu của mình là anh Đào Quốc H vay được số tiền 1.000.000 đồng trả cho Tr nên Tr cho anh V về. Khoảng 14 giờ cùng ngày, do chị T3 không vay được tiền để trả nợ nên Tr đưa chị T3 về nhà của chị T3 tại tổ 10, phường Tân Thịnh, thành phố Thái Nguyên thì bố chị T3 là ông Lê Mạnh Ch hứa sẽ trả nợ thay chị T3 thì Tr mới không đánh và giữ chị T3 nữa.
Như vậy, đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Thành Tr, Nguyễn Quang H1 phạm tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và tội “cướp tài sản” được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 157 và Khoản 1 Điều 168 BLHS. Bị cáo Nguyễn Hoàng H phạm tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và tội “cướp tài sản” được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 157 và điểm d Khoản 2 Điều 168 BLHS như bản cáo trạng truy tố là đúng pháp luật. Nội đung điều luật như sau:
Điều 157. Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật
1. Người nào bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 377 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
đ) Đối với 02 người trở lên;
Điều 168. Tội cướp tài sản
1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
d) Sử dụng … phương tiện …nguy hiểm khác”.
Về vai trò đồng phạm của các bị cáo: Trong vu an nay , Nguyễn Thành Tr, Nguyễn Quang H1, Nguyễn Hoàng H tham gia đông pham vơi vai tro la ngươi trưc tiêp thưc hiên tôi pham.
[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo đã dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực để ép, khống chế bị hại là chị T3, anh V lên xe mô tô và giữ khoảng 1 giờ 30 phút với Việt và 2 giờ đối với Trà tại số nhà 01, ngõ 378, đường ga Thái Nguyên. Ngoài ra, các bị cáo Tr, Quang H1 còn có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực bằng chân, tay không, bị cáo Hoàng H vừa dùng chân, tay không vừa dùng ô (phương tiện nguy hiểm) khiến bị hại lâm vào tình trạng không thể chống cự để chiếm đoạt tài sản. Động cơ, mục đích phạm tội của các bị cáo là nhằm buộc Anh V và chị T3 trả số tiền nợ cho Nguyễn Thành Tr và Nguyễn Quang H1 Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy: Các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, bị cáo Tr và bị cáo Nguyễn Hoàng H có nhân thân xấu. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, đã tự nguyện bồi thường thiệt hại và tổn thất tinh thần cho anh V; người bị hại (anh V, chị T3) cũng có một phần lỗi do vay mà không trả tiền cho bị cáo Tr và Quang Huy; Anh V có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho 03 bị cáo. Ngoài ra, bị cáo Quang H1 có bố đẻ được tặng thưởng huân chương kháng chiến, bị cáo Hoàng H cũng có ông được tặng thưởng huân chương kháng chiến nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ hình phạt quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS cho cả hai tội và không phải chịu tình tiết tăng nặng nào theo quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS. Mức hình phạt Viện kiểm sát đề nghị đối với các bị cáo là có căn cứ chấp nhận.
[4] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận việc tự nguyện thỏa thuận bồi thường của các bị cáo cho bị hại anh Ngô Thiên V là 5.000.000đ, trong đó Tr là 2.000.000đ, Hoàng H và Quang H1 mỗi bị cáo 1.500.000đ.
[6] Vật chứng của vụ án: Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS, màu vàng, bên trong lắp 01 sim số thuê bao 0868.936.678 thu giữ của Tr; 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS MAX, màu vàng, dung lượng 64GB, bên trong lắp 01 sim số thuê bao 0986.197.698 thu giữ của Nguyễn Hoàng H và 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA SH, màu xanh, BKS: 20B1-640.23 thu giữ của Nguyễn Quang H1 là công cụ, phương tiện phạm tội nên tịch thu sung quỹ.
- Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếc ô, màu đỏ, dài 90cm, có cán bằng gỗ sơn màu nâu, đã qua sử dụng.
- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA SH, màu xanh, BKS: 20B2- 156.56 thu giữ của Tr, xác định là tài sản của bà Đoàn Thị L, Bà Lcho Tr mượn nhưng không biết Tr sử dụng vào việc phạm tội nên hoàn trả cho bà Lan. Đối với số tiền 1.000.000 đồng Tr giao nộp cho cơ quan điều tra có nguồn gốc là của Anh V mượn của anh Đào Quang Huy, anh Huy có đơn xin lại số tiền trên nên trả lại cho anh Huy.
[7] Án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định.
Ngoài ra, trong giai đoạn điều tra chị T3 có khai Phạm Minh S là người đi cùng với Tr, Quang H1 và Hoàng H đưa chị T3 về nhà để gặp bố chị (ông Ch) nói chuyện về số nợ của chị. Tuy nhiên, các bị cáo và ông Ch đều khai S không đi cùng 03 bị cáo. Hội đồng xét xử đã tiến hành mở niêm phong công khai dữ liệu camera thu được tại trước cửa quầy của Tr tại phiên tòa. Hình ảnh camera thể hiện chỉ có Tr đèo T3, Hoàng H và Quang H1 đi một xe khác cùng rời khỏi quầy còn S ở lại quầy không đi cùng. Do đó, lời khai của chị T3 đối với anh S là không chính xác.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thành Tr, Nguyễn Hoàng H (tức Nguyễn Mạnh H5), Nguyễn Quang H1 phạm tội “Cướp tài sản" và “Bắt, giữ người trái pháp luật”.
1. Về hình phạt:
+ Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 157; Khoản 1 Điều 168BLHS. Áp dụng Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 BLHS đối với cả hai tội, xử phạt:
- Bị cáo Nguyễn Thành Tr 27 (Hai mươi bẩy) tháng tù về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và 39 (ba mươi chín) tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Áp dụng Điều 55BLHS, tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 05 (năm) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi chấp hành án được trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 08/11/2020 đến ngày 14/11/2020.
- Bị cáo Nguyễn Quang H1 24 (Hai mươi bốn) tháng tù về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và 36 (ba mươi sáu) tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Áp dụng Điều 55BLHS, tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi chấp hành án.
+ Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 157; điểm d Khoản 2 Điều 168 BLHS; áp dụng Điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 BLHS cho cả hai tội, xử phạt: bị cáo Nguyễn Hoàng H (tức Nguyễn Mạnh H5) 02 (Hai) năm tù về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và 07 (bẩy) năm tù về tội “Cướp tài sản”. Áp dụng Điều 55BLHS, tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 09 (chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi chấp hành án được trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 08/11/2020 đến ngày 14/11/2020.
2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47; 48 BLHS, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự
+ Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếc ô, màu đỏ, dài 90cm, có cán bằng gỗ sơn màu nâu,kích thước 3x14cm, đã qua sử dụng.
+ Tịch thu sung quỹ:
- 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe hai bánh từ 50-175cm3; số loại SH, BKS: 20B1-640.23; màu sơn thực tế tại xe: màu xanh (màu theo phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ của phòng cảnh sát giao thông công an tỉnh Thái Nguyên là trắng - đen), số khung: 4215DY095811, số máy: JF42E0095951,dung tích xi lanh 124, đã qua sử dụng của Nguyễn Quang H1.
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS, màu vàng, dung lượng 64GB, số IMEI: 357202092941773, đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 sim số thuê bao 0868.936.678 của Nguyễn Thành Tr; 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS MAX, màu vàng, dung lượng 64GB, số IMEI: 357262094443905, đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 sim số thuê bao 0986.197.698 của Nguyễn Hoàng H.
+ Hoàn trả cho bà Đoàn Thị L: 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe hai bánh từ 50-175cm3; số loại SH125i, BKS: 20B2-156.56; màu sơn thực tế tại xe: màu xanh (màu theo phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ của phòng cảnh sát giao thông công an tỉnh Thái Nguyên màu sơn đen), số khung 7306GY124972, số máy JF73E0125049, dung tích xi lanh 124, đã qua sử dụng .
+ Hoàn trả cho anh Đào Quốc H1 1.000.000đ (Một triệu đồng) do Tr đã giao nộp.
(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng số 439 ngày 04/6/2021 và ủy nhiệm chi số 38 ngày 04/6/2021 giữa cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên).
3. Trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong
4. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 BLTTHS; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí lệ phí Tòa án, buộc mỗi bị cáo (Tr, Hoàng Huy, Quang Huy) phải nộp 200.000đ án phí HSST vào ngân sách nhà nước.
5. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt các bị cáo, bị hại (anh V), người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (bà Lan, anh Đào Quốc H), báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại (chị T3) có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
Bản án 457/2021/HSST ngày 20/09/2021 về tội bắt, giữ người trái pháp luật và cướp tài sản
Số hiệu: | 457/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về