Bản án 456/2019/HS-PT ngày 14/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 456/2019/HS-PT NGÀY 14/08/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 190/2019/TLPT-HS ngày 23/4/2019 đối với bị cáo Phạm Ngọc Th do có kháng cáo của bị cáo đối svới bản án hình sự sơ thẩm số: 59/2019/HS-ST ngày 15/3/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

-Bị cáo có kháng cáo:

Bị cáo Phạm Ngọc Th, sinh năm 1989 tại tỉnh Yên Bái; NKTT: đường Ng, Tổ 12, phường Y, thành phố Y1, tỉnh Yên Bái; Chỗ ở: đường L, Phường 2, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: (Không); Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: (Không); Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Phạm Xuân Th và bà Trần Thị M; Vợ, con: có vợ tên Phạm Thị T và 01 con sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: (Không).

Nhân thân: Ngày 15/4/2016, bị Tòa án nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 08 năm tù về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 113/2016/HS-ST.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 22/10/2015. Hiện đang chấp hành án tại Trại giam C, Bộ Công an, đã được trích xuất về Trại tạm giam C1 để phục vụ cho việc điều tra, truy tố, xét xử (Có mặt).

-Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Luật sư Bùi Khắc T - thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 03/4/2015, tại trước nhà số 96 Đường L1, Phường 12, quận T, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy – Công an quận T bắt quả tang Hồ Văn Th1 đang có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Trần Huy V, thu giữ của Th1 01 hộp thiếc màu đỏ có chữa “I Love You” bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu có khối lượng 4,4364 gram loại Methamphetamine. Th1 khai số ma túy trên Th1 vừa mua của Phạm Ngọc Th ở Phòng 102 Nhà số 22C L, Phường 2, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh với giá 3.500.000 đồng, sau khi mua xong, Th1 cất giấu trong người mang đi bán cho V nhưng chưa kịp bán thì bị bắt. Căn cứ vào lời khai của Th1, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an quận T phố hợp Công an Phương 2, quận T tiến hành xác định Th có họ tên Phạm Ngọc Th, sinh năm 1989, đăng ký hộ khẩu thường trú tại tổ 12A, phường Y, thành phố Y1, tỉnh Yên Bái, thuê nhà ở tại Phòng 102 Nhà số 22C L, Phường 2, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. Do đó, lúc 19 giờ 50 phút, ngày 03/4/2015, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an quận T phối hợp với Công an Phường 2, tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Phạm Ngọc Th tại Phòng 102 Nhà số 22C L, Phường 2, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, thu giữ trong gối trên giường 01 hộp thiếc màu đồng có chữ “KOLIGIN-F” bên trong có 07 gói nylon chứa chất tinh thể không màu, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 376,4023g, loại Methamphetamine (Theo kết luận giám định số 795/KLGĐ-H ngày 05/6/2015; Kết luận giám định bổ sung số 31/KLGĐBS-H ngày 26/02/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh).

Ngày 22/01/2016, Cơ quan Cảnh sát điều tra (PC47) đã khởi tố bị can đối với Phạm Ngọc Th về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”, do Th bỏ trốn nên Cơ quan CSĐT đã ra quyết định truy nã nhưng vẫn chưa bắt được Th nên ngày 25/5/2016, CQĐT đã ra quyết định tạm đình chỉ điều tra đối với Th. Ngày 23/3/2017, qua xác minh tại Trại tạm giam C – Bộ Công an, được biết Th đang chấp hành hình phạt tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Do đó, Cơ quan CSĐT đã ra quyết định phục hồi điều tra vụ án, phục hồi điều tra bị can đối với Th.

Quá trình điều tra, Th khai phòng 102 nhà số 22C L, Phường 2, quận T là do Th thuê ở nhưng số ma túy có khối lượng 376,4023g, loại Methamphetamine thu giữ tại nơi ở của Th không phải của Th và Th cũng không có bán ma túy cho Th1.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 59/2019/HS-ST ngày 15/3/2019, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Ngọc Th phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm e khoản 4, khoản 5 Điều 194 BLHS năm 1999, sửa đổi bổi sung năm 2009; khoản 2 Điều 51; Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc Th 20 (hai mười) năm tù.

Tổng hợp hình phạt 08 (tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo bản án số 113/2016/HSST ngày 15/4/2016 của Tòa án nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 28 (hai mươi tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/10/2015.

Buộc bị cáo nộp phạt 20.000.000 đồng sung vào công quỹ Nhà nước.

- Án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

- Ngày 18/3/2019, bị cáo Phạm Ngọc Th làm đơn kháng cáo kêu oan, đề nghị cấp phúc thẩm xét xử lại đúng người, đúng tội.

*Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

-Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh:

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Tuy nhiên, căn cứ vào các chứng cứ có tại hồ sơ vụ án cho thấy khi mở rộng điều tra, cơ quan chức năng khám xét nơi ở tại địa chỉ phòng 102 nhà số 22C L, Phường 2, quận T, tại đây có nhiều giấy tờ nhân thân của bị cáo. Lời khai của người cho thuê nhà, đăng ký tạm trú ở Công an phường cho thấy bị cáo là người thuê phòng 102. Do đó, có đủ căn cứ kết luận số lượng ma túy thu giữ tại phòng 102 là của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử khôgn chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ y án sơ thẩm.

- Ý kiến của luật sư: Căn cứ vào các chứng cứ có tại hồ sơ cho thấy chưa có căn cứ để khẳng định lượng ma túy thu giữ tại phòng 102 là của bị cáo. Bị cáo Th không có thừa nhận mình là người thuê phòng trọ, quá trình điều tra, biên bản hỏi cung có dấu hiệu tẩy xóa về địa chỉ bị cáo thuê. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tính có căn cứ của các chứng cứ, nếu không có cơ sở buộc tội đề nghị hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không phạm tội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Tại phiên tòa phúc phẩm, bị cáo tiếp tục kêu oan, không thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Căn cứ vào các chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, lời bào chữa của luật sư. Hội đồng xét xử cho rằng, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là có căn cứ, không oan, bởi các lẽ sau:

[1] Chiều ngày 03/4/2015, Công an bắt quả tang Hồ Văn Th1 đang bán ma túy cho Trần Huy V, thu giữ của Th1 01 hộp thiếc màu đỏ co ghi chữ I Love You, bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu có khối lượng 4,4364g loại Methamphetamine. Th1 khai nhận mua số ma túy trên của Phạm Ngọc Th ở phòng 102 nhà số 22C L, Phường 2, quận T với giá là 3.500.000 đồng. Mở rộng điều tra, Cơ quan chức năng xác minh địa chỉ phòng 102, nhà số 22C L, Phường 2, quận T xác định Th có họ tên Phạm Ngọc Th, sinh năm 1989, hộ khẩu thường trú tại 12A, phường Y, thành phố Y1, tỉnh Yên Bái là người thuê phòng 102 nhà số 22C L, Phường 2, quận T. Tiến hành khám xét nơi ở của Th (Lúc này Th không có mặt ở phòng 102) thu giữ trong gối trên giường 01 hộp thiếc màu đồng có in chữ KOLIGIN-F bên trong có 07 gói nylon, chưa tinh thể không màu, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 376,4023g loại Methamphetamine. Ngoài ra, còn thu giữ 02 tấm ảnh, 01 thẻ vận động viên, 04 tờ giấy khai sinh, 02 tờ giấy phô tô bằng tốt nghiệp, 02 tờ giấy mua bán xe, 02 tờ giấy phô tô sổ hộ khẩu, 01 tờ biên nhận thanh lý hợp đồng, tất cả đều mang tên Phạm Ngọc Th; Ngoài ra, còn giữ 01 cân điện tử, 02 ống xúc bằng nhựa, 20 bịch nylon, 01 bình gaz.

[2] Căn cứ lời khai của ông T (người quản lý nhà trọ) cho biết Th là người đứng ra ký hợp đồng thuê phòng 102 từ ngày 20/3/2015 đến cùng ngày 03/4/2015, không có ai khác ở phòng 102 ngoài Th. Công an Phường 2 xác nhận Th có được thông báo lưu trú tại phòng 102 từ tháng 3/2015 đến ngày 03/4/2015. Bản thân bị cáo Th cũng thừa nhận các giấy tờ tuy thân bị thu giữ tại phòng 102 là của Th. Do đó, có đủ cơ sở kết luận Th là người thuê phòng 102 và không có ai khác ngoài Th ở phòng 102 nên Th phải chịu trách nhiệm đối với lượng ma túy thu giữ tại phòng 102. Việc Th khai Th thuê phòng 102 nhà số 22b/16 L là không đúng, căn nhà 22b/16 L do bà Nguyễn Khánh Ch thuê.

[3] Căn cứ lời khai của Hồ Văn Th1 khai mua của Th 4,436g ma túy loại Methamphetamine tại phòng 102 nhà 22c L của Th. Lời khai của ông Lưu Văn Tưởng (quản lý nhà trọ) xác định Th là người thuê phòng 102 nhà số 22c L, tự ý bỏ đi không trả phòng thuê. Bản thân ông T và Hồ Văn Th1 đều nhận diện đúng Th là người ở tại phòng 102 nhà 22c L tại thời điểm khám xét. Do vậy, có đủ căn cứ kết luận Th là người đã bán cho Hồ Văn Th1 4,436g ma túy tại phòng 102 nhà 22c L.

[4] Diễn biến sự việc cho thấy, khi phát hiện Hồ Văn Th1 bị Công an bắt giữ, Th đã bỏ nhà trọ đang thuê (phong 102 nhà 22c L) đi nơi khác và tiếp tục thực hiện hành vi mua bán ma túy thì bị bắt giữ ngày 22/10/2015 và bị Tòa án nhân dân quận T xử phạt bị cáo 8 năm tù.

Từ những phân tích như trên, cho thấy Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với lượng ma túy thu giữ tại phòng 102 nhà 22c L (376,4023g) và lượng ma túy bị cáo bán cho Hồ Văn Th1 (4,4346g) là có căn cứ, không oan như bị cáo kháng cáo. Do đó, không chấp nhận kháng cáo. Do đó, không chấp nhận yeu cầu kháng cáo của bị cáo, giữ y án sơ thẩm. Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân là có căn cứ nên chấp nhận, việc luật sư đề nghị tuyên bố bị cáo không phạm tội là không có căn cứ nên không chấp nhận.

Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Phạm Ngọc Th. Giữ y án sơ thẩm số 59/2019/HS-ST ngày 15/3/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Áp dụng điểm e khoản 4, khoản 5 Điều 194 BLHS năm 1999, sửa đổi bổi sung năm 2009; khoản 2 Điều 51; Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc Th 20 (hai mười) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Tổng hợp hình phạt 08 (tám) năm tù theo bản án số 113/2016/HSST ngày 15/4/2016 của Tòa án nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. Buộc bị cáo Phạm Ngọc Th phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 28 (hai mươi tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/10/2015. Tiếp tục giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Buộc bị cáo Phạm Ngọc Th phải nộp phạt 20.000.000 đồng, sung vào công quỹ Nhà nước.

-Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các nội dung khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 456/2019/HS-PT ngày 14/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:456/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về