Bản án 455/2020/HS-ST ngày 30/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 455/2020/HS-ST NGÀY 30/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 10 năm 2020 tại Hội trường A, Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 437/2020/TLST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 456/2020/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Huỳnh Ngọc H, sinh năm 1989 tại tỉnh An Giang; thường trú: Ấp Ph Th, xã Ph H, huyện A Ph, tỉnh An Giang; chỗ ở: Số 572/11 khu phố T H, phường Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Thợ hồ; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Cao Đài; con ông Huỳnh Ngọc Th (đã chết) và bà Nguyễn Thị M, sinh năm không rõ; bị cáo có 06 anh em ruột, lớn sinh sinh năm 1983, nhỏ sinh năm 1993; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/7/2020; có mặt.

*Người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng:

1. Anh Lê Minh Qu, sinh năm 2001; vắng mặt.

2. Chị Dương Thị Tuyết H1, sinh năm 1989; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Huỳnh Ngọc H là người sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 23 giờ ngày 18/7/2020, Đội quản lý hành chính và trật tự xã hội, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an thành phố D A phối hợp với Công an phường Đ H kiểm tra hành chính dãy nhà trọ số 572/11 khu phố T H, phường Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương. Qua kiểm tra tại phòng số 01 phát hiện Huỳnh Ngọc H1 đang ngồi giữa phòng trọ bên cạnh có 01 nỏ thủy tinh, 01 chai nhựa và ống hút nên tiến hành kiểm tra người của H thu giữ trong túi quần trước bên phải 01 gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng, H khai nhận là ma túy nên Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Quá trình điều tra xác định, vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 18/7/2020, H đón xe môtô chở khách đến khu vực hầm đá, phường Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 400.000 đồng ma túy thì được người đàn ông này giao cho 01 gói nilon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng. Sau khi mua được ma túy, H cất vào túi quần trước bên phải và mang về phòng trọ số 01 để sử dụng thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện bắt giữ. Đối với Dương Thị Tuyết H1 sống chung với H như vợ chồng tại phòng trọ số 01 dãy nhà trọ số 572/11 khu phố T H, phường Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương. H1 không biết việc H tàng trữ trái phép chất ma túy và cũng không sử dụng ma túy nên không đề cập xử lý.

Vật chứng thu giữ: 01 gói nilon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng và 01 nỏ thủy tinh, 01 chai nhựa và 01 ống hút.

Kết luận giám định số 465/MT-PC09 ngày 24/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương: Mẫu tinh thể màu trắng có trong 01 ( một) gói nylon hàn kín thu giữ của Huỳnh Ngọc H là ma túy, có khối lượng 0,6122 gam, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì các Kết luận giám định số: 465/MT-PC09 ngày 24/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho Huỳnh Ngọc Hảy (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Tại cáo trạng số 457/CT – VKS ngày 14 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Huỳnh Ngọc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Huỳnh Ngọc H mức án từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.

* Về xử lý vật chứng: Đối với 01 (một) bì thư niêm phong bên trong chứa ma túy, có trọng lượng 0,5603gam, loại Methamphetamine và 01 chai nhựa, 01 nỏ thủy tinh, 01 ống hút nhựa là vật cấm lưu thông, công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt và xử lý vật chứng đồng thời bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 23 giờ ngày 18/7/2020, Công an phường T Đ H phối hợp với Đội Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Đội Cảnh sát kinh tế - ma túy Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương tiến hành kiểm tra hành chính phòng trọ số M dãy nhà trọ số 572/11 khu phố T H, phường Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương phát hiện Huỳnh Ngọc H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy khối lượng 0,6122 gam loại Methamphetamine.

[3] Như vậy, hành vi trên đây của bị cáo Huỳnh Ngọc H tàng trữ ma túy có khối lượng 0,6122 gam, loại Methamphetamine, mục đích tàng trữ để sử dụng, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số: 457/CT-VKS ngày 14 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo Huỳnh Ngọc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[4] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[7] Về nhân thân: Bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự và người không biết chữ. Tuy nhiên, bị cáo là người nghiện ma túy nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[8] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xét bị cáo phạm tội nghiêm trọng, đã xâm phạm vào sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý đồng thời bị cáo có nhân thân xấu, có tiền sự chưa được xóa và là người nghiện ma túy. Vì vậy Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

- Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, áp dụng phạt tù cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Xử lý vật chứng: Xét 01 (một) bì thư niêm phong bên trong chứa ma túy, có trọng lượng 0,5603gam, loại Methamphetamine và 01 chai nhựa, 01 nỏ thủy tinh, 01 ống hút nhựa là vật cấm lưu thông, công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Đối với người đàn ông bán ma túy cho Huỳnh Ngọc H (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D A tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau và đối với Dương Thị Tuyết H sống chung với H như vợ chồng tại phòng trọ số 01 trọ dãy nhà trọ số 572/11 khu phố T H, phường Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương. H không biết việc H tàng trữ trái phép chất ma túy và cũng không sử dụng ma túy nên không đề cập xử lý là đúng theo quy định của pháp luật.

[11] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo và xử lý vật chứng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Huỳnh Ngọc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Ngọc H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/7/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu sung tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong bên trong chứa ma túy, có trọng lượng 0,5603gam, loại Methamphetamine và 01 chai nhựa, 01 nỏ thủy tinh, 01 ống hút nhựa.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 14/10/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Dĩ An).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Huỳnh Ngọc H phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 455/2020/HS-ST ngày 30/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:455/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về