Bản án 45/2021/HS-ST ngày 23/04/2021 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH B

BẢN ÁN 45/2021/HS-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Trong ngày 23 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố B, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 42/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2021 theo Quyết Đ đưa vụ án ra xét xử số: 42/2021/QĐXXST- HS ngày 09 tháng 4 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Thị L, sinh năm 1971 tại thành phố B, tỉnh B; Tên gọi khác: Không; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Số nhà 43, đường Trần Quang KH, phường TX, thành phố B, tỉnh B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 12/12; Con ông Nguyễn Xuân Chức (đã chết) và bà Nguyễn Thị Thắng, sinh năm 1939; Gia đình có 07 chị em, bị cáo là con thứ sáu; Bị cáo có chồng là Hoàng Công A, sinh năm 1966 ( đã chết) và có 02 con, con lớn sinh năm 1991, con nhỏ sinh năm 1996.

Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không.

Bị cáo đầu thú ngày 06/11/2020, bị áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại.

(Có mặt tại phiên toà)

2. Họ và tên: Nguyễn Thị N, sinh năm 1981 tại huyện L Giang, tỉnh B; Tên gọi khác: Không; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố Hướng, phường TX, thành phố B, tỉnh B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 7/12; Con ông: Nguyễn Văn Sản, sinh năm 1935 và bà: Hà Thị C, sinh năm 1940; Gia đình có 07 anh em, bị cáo là con út; Bị cáo có chồng là Lê Kim B, sinh năm 1972 và có 02 con, con lớn sinh năm 1999, con nhỏ sinh năm 2006.

Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không.

Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ từ ngày 06/11/2020 đến ngày 09/11/2020 được thay thế bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại.

(Có mặt tại phiên toà)

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Anh Hoàng Văn H, sinh năm 1980. (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 6, đường Lều Văn Minh, phường TX, thành phố B, tỉnh B.

- Chị Hoàng Thị B, sinh năm 1976. (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 14, ngõ 66, tổ dân phố Mới, phường TX, thành phố B, tỉnh B.

- Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1969. (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 02, ngõ 1, đường Trần Quang KH, phường TX, thành phố B, tỉnh B.

- Chị Hoàng Thị B, sinh năm 1982. (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 82, đường Cao Kỳ Vân, phường TX, thành phố B, tỉnh B.

- Chị Hoàng Thị Đ, sinh năm 1974. (Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ dân phố Hướng, phường TX, thành phố B, tỉnh B.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Theo các tài B có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 21 giờ 30 phút ngày 05/11/2020, tổ công tác Công an phường TX tiến hành kiểm tra hành chính nhà ông Đoàn Văn Khương, sinh năm 1971, trú tại ngách 15, tổ dân phố Hướng, phường TX, thành phố B, tỉnh B, kết quả phát hiện 04 đối tượng có hành vi đánh bạc trái phép bằng hình thức đánh phỏm gồm: Đoàn Văn Khương, Nguyễn Thị Hồng, sinh năm 1961, trú tại tổ dân phố Hướng, phường TX, thành phố B, Nguyễn Thị N, sinh năm 1981, trú tại tổ dân phố Hướng, phường TX, thành phố B và Lê Thị Đ, sinh năm 1973, trú tại tổ dân phố Hướng, phường TX, thành phố B, số tiền thu giữ trên chiếu bạc là 720.000 đồng. Do không đủ yếu tố cấu thành tội phạm, Trưởng Công an thành phố B đã ra Quyết Đ xử phạt vi phạm hành chính đối với 04 đối tượng trên.

Quá trình kiểm tra hành chính, Công an phường TX, thành phố B tạm giữ của Nguyễn Thị N01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3S vỏ màu đỏ, có số imei 1: 866269042398879, số imei 2: 866269042398861 lắp sim 1 số 0961.510.481, sim 2 số 0339.725.587, máy cũ đã qua sử dụng.

Ngày 06/11/2020, Cơ quan điều tra đã tiến hành kiểm tra điện thoại trên của Ninh, kết quả tại thư mục tin nhắn phát hiện nội dung nhắn tin mua bán số lô, số đề với Nguyễn Thị L, sinh năm 1971, trú tại số nhà 43 đường Trần Quang KH, phường TX, thành phố B, tỉnh B (số điện thoại 0973.774.005, NA tên trong danh bạ là “Liu Lang”) và Hoàng Thị Đ, sinh năm 1974, trú tại tổ dân phố Hướng, phường TX, thành phố B, tỉnh B (số điện thoại 0886.932.619, NA tên trong danh bạ là “Đ”).

Cùng ngày, Nguyễn Thị Nvà Nguyễn Thị L làm đơn xin đầu thú, khai nhận hành vi đánh bạc dưới hình thức mua bán số lô, số đề trái phép. Đồng thời, Nguyễn Thị L giao nộp cho Cơ quan điều tra 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, màu trắng, có số imei 35686061103057 gắn số sim thuê bao 0973.774.005. Cơ quan điều tra đã tiến hành kiểm tra điện thoại di động của Nguyễn Thị L, kết quả tại thư mục tin nhắn và ứng dụng Zalo phát hiện nhiều tin nhắn có nội dung mua bán số lô, số đề giữa L và một số đối tượng.

Quá trình điều tra đã xác Đ được cách thức đánh bạc, tỷ lệ trả thưởng như sau:

- Dạng thứ nhất là đề “Đặc biệt”, “Nhất to” hoặc “2 cửa”; ký hiệu ghi đề Đặc biệt là: “ĐB”; ghi đề nhất to là “NT”; đề 2 cửa ký hiệu “X2”. Người chơi đặt cược hai số cuối của giải đặc biệt hoặc giải nhất hoặc đặt cược cả 2 số cuối của giải đặc biệt và giải nhất của kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc, nếu trúng người chơi đề sẽ được trả thưởng gấp 70 lần tiền cược, nếu không trúng thì mất số tiền đặt cược.

- Dạng thứ 2 gọi là chơi “Lô”, ký hiệu là “Lô”. Người chơi đặt cược 2 số cuối của tất cả các giải kết quả xổ số, nếu trúng cược sẽ được trả 80.000 đồng/1 điểm (mỗi điểm người chơi pH đặt cược là 23.000 đồng). Một số đặt cược chỉ được trả thưởng tối đa 03 lần nếu khi so với kết quả xổ số có nhiều lần xuất hiện số đặt cược đó. Nếu người chơi thua thì bị mất số tiền đặt cược.

- Dạng thứ ba gọi là chơi “lô xiên”, ký hiệu là “Xiên”: Người chơi đặt cược từng cặp số gồm cặp 2 số, cặp 3 số, cặp 4 số (mỗi số gồm có 2 chữ số) để cược với hai số cuối cùng của tất cả các giải xổ số. Nếu trúng người chơi sẽ được trả thưởng theo tỷ lệ: Cặp 2 số (xiên 2) hưởng gấp 10 lần số tiền đặt cược, cặp 3 số (xiên 3) hưởng gấp 45 lần số tiền đặt cược, cặp 4 số (xiên 4) hưởng gấp 120 lần số tiền đặt cược. Nếu người chơi thua thì bị mất số tiền đặt cược.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thị L đã khai nhận đã sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, gắn số sim thuê bao 0973.774.005 để bán ô số lô, ô số đề cho khách, cụ thể như sau:

* Hành vi đánh bạc giữa Nguyễn Thị L với số điện thoại 0961.510.481. Quá trình điều tra xác Đ là số điện thoại của Nguyễn Thị N:

- Hồi 17 giờ 44 phút ngày 03/11/2020, Nnhắn tin cho L với nội dung mua các số: Đề đặc biệt gồm số 42 với giá 100.000 đồng, đầu 9 mỗi số 30.000 đồng; lô gồm 81, 50, 25 mỗi số 10 điểm; tương ứng với số tiền là 1.090.000 đồng. Kết quả Ntrúng thưởng giải lô số 81, tổng 10 điểm, tương ứng với 800.000 đồng. Tổng số tiền đánh bạc giữa L và Nngày 03/11/2020 là 1.890.000 đồng.

- Hồi 17 giờ 56 phút ngày 04/11/2021, Nnhắn tin cho L mua các số: đề đặc biệt gồm số 42 với giá 20.000 đồng, số 46 với giá 20.000 đồng; lô gồm 11, 44, 50, 82, 17, 35 mỗi số 10 điểm; xiên 3 (77,35,05) với giá 20.000 đồng; tương ứng với số tiền là 1.440.000 đồng. Kết quả, Ntrúng thưởng ở giải lô các số 11, 50, 17, 35, tổng giá trị 40 điểm, tương ứng với số tiền là 3.200.000 đồng. Tổng số tiền đánh bạc giữa L và Nngày 04/11/2020 là 4.640.000 đồng.

- Hồi 17 giờ 49 phút ngày 05/11/2020, Nnhắn tin cho L mua các số: Hai cửa gồm 11,85, 82 mỗi số 20.000 đồng; đặc biệt gồm đầu 9, đít 9 mỗi số 20.000 đồng; lô gồm 12, 82, 98, 40, 32, 23 mỗi số 10 điểm; tương ứng với số tiền là 1.900.000 đồng. Kết quả, Ntrúng thưởng ở giải lô số 98 hai lần, số 40 và số 32, tổng giá trị 40 điểm, tương ứng với 3.200.000 đồng. Tổng số tiền đánh bạc giữa L ngày 05/11/2020 là 5.100.000 đồng.

N và L đã thanh toán xong số tiền đánh bạc ngày 03/11/2020 và 04/11/2020.

* Hành vi đánh bạc giữa Nguyễn Thị L với số điện thoại 0989.974.298 L A tên trong danh bạ điện thoại là “Hai Soan”. Quá trình điều tra xác Đ số điện thoại trên là của Hoàng Văn H, sinh năm 1980, trú tại số nhà 06, đường Lều Văn Minh, phường TX, thành phố B.

- Hồi 17 giờ 04 phút ngày 15/11/2019, H nhắn tin cho L mua các số: Hai cửa gồm 76, 77, 78 mỗi số giá 60.000 đồng; lô gồm 76, 20 mỗi số 50 điểm; tướng ứng với số tiền là 2.660.000 đồng. Kết quả, H không trúng thưởng. Tổng số tiền L và H đánh bạc ngày 15/11/2020 là 2.660.000 đồng. Số tiền này L và H chưa thanh toán với nhau.

* Hành vi đánh bạc giữa Nguyễn Thị L với số điện thoại 0378.925.763, L A tên trong danh bạ là “Bich Luong”. Quá trình điều tra xác số điện thoại trên là của Hoàng Thị B, sinh năm 1976, trú tại số nhà 14, ngõ 66, tổ dân phố Mới, phường TX, thành phố B.

- Hồi 17 giờ 23 phút ngày 21/10/2020, B nhắn tin cho L mua các số: Hai cửa gồm 70, 51, 52 mỗi số 50.000 đồng; tương ứng với số tiền là 300.000 đồng. Kết quả, B không trúng thưởng. Tổng số tiền đánh bạc giữa L và B ngày 21/10/2020 là 300.000 đồng.

- Hồi 10 giờ 32 phút ngày 03/11/2020, B nhắn tin cho L mua các số: Hai cửa gồm 77,72,16 mỗi số 50.000 đồng; lô 61 với giá 20 điểm; tương ứng với số tiền là 760.000 đồng. Kết quả, B không trúng thưởng. Tổng số tiền đánh bạc giữa L và B ngày 03/11/2020 là 760.000 đồng.

- Hồi 08 giờ 36 phút ngày 05/11/2020, B nhắn tin mua các số: Đặc biệt 63 với giá 1.000.000 đồng, số 36 với giá 500.000 đồng, số 44 với giá 200.000 đồng, số 81 với giá 50.000 đồng; nhất to gồm 63, 36, 44 mỗi số 100.000 đồng; hai cửa số 72 giá 50.000 đồng; lô gồm 63 với giá 20 điểm, 81 với giá 30 điểm, 36, 18 mỗi số 10 điểm; tương ứng với số tiền là 3.760.000 đồng. Kết quả, B không trúng thưởng. Tổng số tiền đánh bạc giữa L và B ngày 05/11/2020 là 3.760.000 đồng.

Toàn bộ số tiền đánh bạc giữa L và B vào các ngày trên đã thanh toán xong với nhau.

* Hành vi đánh bạc giữa Nguyễn Thị L với số điện thoại di động 0988.144.223, L A tên trong danh bạ là “luong huong”. Quá trình điều tra xác Đ số điện thoại trên là của Nguyễn Văn L, sinh năm 1969, trú tại số nhà 02, ngõ 1, đường Trần Quang KH 1, phường TX, thành phố B.

- Hồi 17 giờ 46 phút ngày 05/11/2020, Mnhắn tin cho L mua số lô 79 với giá trị 10 điểm, tương ứng số tiền là 230.000 đồng. Kết quả, Mkhông trúng thưởng. Tổng số tiền đánh bạc giữa L và Mngày 05/11/2020 là 230.000 đồng. Số tiền này L và Mchưa thanh toán với nhau.

* Hành vi đánh bạc giữa Nguyễn Thị L với tài khoản zalo “Bac Phong” được đăng ký bằng số điện thoại 0379.827.380. Quá trình điều tra xác Đ số điện thoại trên là của Hoàng Thị B, sinh năm 1969, trú tại số nhà 82 đường Cao Kỳ Vân, phường TX, thành phố B, tỉnh B.

- Hồi 17 giờ 39 phút ngày 01/11/2020, Knhắn tin đến tài khoản zalo tên “Lang Vang” được đăng ký bằng số điện thoại 0973.774.005 của Nguyễn Thị L với nội dung mua các số lô gồm 53, 02, 20 mỗi ô số 03 điểm. Số tiền Kmua số lô của L là 276.000 đồng. Kết quả, Ktrúng thưởng số 02 và 53, tổng giá trị là 06 điểm, tương ứng với số tiền 480.000 đồng. Tổng số tiền đánh bạc giữa L và Kngày 01/11/2020 là 756.000 đồng.

- Hồi 17 giờ 26 phút ngày 02/11/2020, Knhắn tin zalo cho L mua các số lô gồm 79, 26, 62, 35 mỗi số 03 điểm, tương ứng với số tiền là 276.000 đồng. Kết quả, Ktrúng thưởng số 79, tổng giá trị là 03 điểm, tương ứng với số tiền 240.000 đồng. Tổng số tiền đánh bạc giữa L và Kngày 02/11/2020 là 516.000 đồng.

- Hồi 17 giờ 57 phút ngày 03/11/2020, Knhắn tin zalo cho L mua các số lô gồm 94, 26, 62, 35 mỗi ô số 3 điểm, tương ứng với số tiền là 276.000 đồng. Kết quả, Kkhông trúng thưởng. Tổng số tiền đánh bạc giữa L và Kngày 03/11/2020 là 276.000 đồng.

Toàn bộ số tiền đánh bạc giữa L và Kđã thanh toán xong.

* Hành vi đánh bạc giữa Nguyễn Thị L và tài khoản Zalo “Lamviec”. L khai nhận đã sử dụng tài khoản zalo tên “Lang Vang” đăng ký bằng số điện thoại 0973.774.005 nhắn tin đến tài khoản zalo tên “Lamviec” để chuyển các số lô, số đề, cụ thể:

- Hồi 17 giờ 35 phút ngày 03/11/2020, L nhắn tin zalo cho tài khoản zalo “Lamviec” chuyển các số đề ở giải đặc biệt gồm 42 với giá 100.000 đồng, 98 với giá 50.000 đồng, đầu 9 mỗi số với giá 25.000 đồng; hai cửa gồm 77, 72, 16 mỗi số 50.000 đồng, các số 08, 80, 90, 40, 30, 03, 66, 99 mỗi số 20 nghìn; xiên 3 (81, 98, 63) với giá 50.000 đồng; tương ứng với số tiền là 1.070.000đ. Kết quả L không trúng số nào. Tổng số tiền đánh bạc giữa L với tài khoản zalo “Lamviec” ngày 03/11/2020 là 1.070.000 đồng.

- Hồi 17 giờ 31 phút ngày 05/11/2020, L nhắn tin zalo cho tài khoản zalo “Lamviec” chuyển các số đề ở giải đặc biệt gồm số 63 với giá 1.000.000 đồng, 36 với giá 500.00 đồng, 44 với giá 200.000 đồng, 81 với giá 50.000 đồng, 68 với giá 100.000 đồng, số 12, 01, 02 mỗi ô só 10.000 đồng, số 32 với giá 20.000 đồng, đầu 9, đít 9 mỗi ô số 10.000 đồng; nhất to gồm 63, 36, 44 mỗi số 100.000 đồng, 09 với giá 30.000 đồng, 05, 02 mỗi số 10.000 đồng; hai cửa gồm 72 với giá 50.000 đồng, 11, 85, 82, 99, 66, 92, 70, 30, 92, 90, 60 mỗi số giá 20.000 đồng, 95, 65 mỗi số giá 10.000 đồng; cặp xiên 4 (12,02,32,91) với giá 30.000 đồng. Kết quả, không có số nào trúng thưởng. Tổng số tiền đánh bạc giữa L với tài khoản zalo “Lamviec” ngày 05/11/2020 là 3.060.000 đồng.

Số tiền đánh bạc trên, L và chủ tài khoản zalo “Lamviec” chưa thanh toán với nhau. L khai chủ tài khoản zalo “Lamviec” tên là Phạm Vũ Linh, nhà ở khu tập thể Phân Đạm, phường Trần Nguyên Hãn, thành phố B. Cơ quan điều tra đã tiến hành làm việc, xác minh tại Công an phường Trần Nguyên Hãn, thành phố B, kết quả xác Đ không có người nào có tên, địa chỉ như L khai. Ngoài lời khai của L thì không có tài B nào khác nên Cơ quan không có căn cứ xác minh, xử lý đối với người có tên Phạm Vũ Linh.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thị N, Nguyễn Thị L và các đối tượng Hoàng Thị Đ, Hoàng Thị B, Hoàng Thị B, Hoàng Văn H, Nguyễn Văn Mđều khai nhận hành vi đánh bạc của mình như đã nêu trên. Đối với các ngày các đối tượng có hành vi đánh bạc dưới 5.000.000đ, không đủ lượng để xử lý hình sự, Cơ quan điều tra Công an thành phố B đã ra quyết Đ xử lý hành chính theo quy Đ.

Vật chứng thu giữ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3S vỏ màu đỏ, có số imei 1: 866269042398879, số imei 2: 866269042398861 lắp sim 1 số 0961.510.481, sim 2 số 0339.725.587, máy cũ đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, màu trắng, có số imei 35686061103057 gắn số sim thuê bao 0973.774.005, máy cũ đã qua sử dụng .

Tại bản cáo trạng số 47/KSĐT ngày 26 tháng 3 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố các bị cáo Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị Nvề tội “Đánh bạc” theo quy Đ tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu, các bị cáo rất ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo L khai bị cáo và Nguyễn Văn Mđã thanh toán xong số tiền bán lô đề ngày 05/11/2020.

Hội đồng xét xử công bố lời khai của những người tham gia tố tụng được triệu tập nhưng vắng mặt tại phiên tòa và các tài B khác có trong hồ sơ. Các bị cáo nhất trí và không có ý kiến gì.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị Nphạm tội “Đánh bạc”.

2. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật Hình sự;

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị L từ 8 đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 16 đến 20 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo L cho Uỷ ban nhân dân phường TX, thành phố B, tỉnh B giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo L.

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ntừ 6 đến 8 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 12 đến 16 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Ncho Uỷ ban nhân dân phường TX, thành phố B, tỉnh B giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Ninh.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3S vỏ màu đỏ, có số imei 1: 866269042398879, số imei 2: 866269042398861 lắp sim 1 số 0961.510.481, sim 2 số 0339.725.587, máy cũ đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, màu trắng, có số imei 35686061103057 gắn số sim thuê bao 0973.774.005, máy cũ đã qua sử dụng.

+ Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước số tiền 13.238.000 đồng, cụ thể như sau: Buộc bị cáo L nộp lại số tiền 8.408.000 đồng, buộc bị cáo Nnộp lại số tiền 4.110.000 đồng. Buộc Hoàng Thị KpH nộp lại số tiền 720.000 đồng.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc các bị cáo pH chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy Đ pháp luật.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với bản luận tội của Viện kiểm sát, xin Hội đồng xét xử cho hưởng án treo để có cơ hội cải sửa bản thân.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài B trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận Đ như sau:

[1] Về hành vi, quyết Đ tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy Đ của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết Đ của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về tội danh: Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài B khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Trong ngày 05/11/2020, Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị Nđã có hành vi đánh bạc bằng hình thức mua, bán số lô, số đề qua tin nhắn điện thoại và mạng xã hội Zalo. Nguyễn Thị L đánh bạc qua tài khoản xã hội Zalo với chủ tài khoản “Lamviec” với số tiền đánh bạc là 3.060.000 đồng; đánh với Nguyễn Văn Mlà 230.000 đồng; đánh với Hoàng Thị B 3.760.000 đồng và đánh với với Nguyễn Thị Nvới tổng số tiền đánh bạc là 5.100.000 đồng. Tổng số tiền Nguyễn Thị L đánh bạc trong ngày 05/11/2020 là 12.150.000 đồng. Tổng số tiền Nguyễn Thị Nđánh bạc trong ngày 05/11/2020 là 5.100.000 đồng. Hành vi của các bị cáo đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy Đ tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố các bị cáo theo tội danh và Điều khoản trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội và vai trò của từng bị cáo: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự xã hội tại địa phương, đồng thời là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Các bị cáo nhận thức rõ hành vi đánh bạc bằng hình thức ghi số lô, số đề là vi phạm pháp luật hình sự nhưng vì động cơ vụ lợi vẫn cố ý phạm tội nên cần xử lý nghiêm các bị cáo bằng pháp luật hình sự nhằm răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho loại tội này. Trước khi phạm tội, các bị cáo không có sự bàn bạc, phân công nhiệm vụ cụ thể nên đây là vụ án đồng phạm có tính chất giản đơn. Bị cáo L là người bán số lô, số đề, chịu trách nhiệm trả thưởng nên có vai trò cao hơn bị cáo Nlà người mua số lô, số đề. Do vậy, cần có hình phạt phù hợp với tính chất hành vi phạm tội và vai trò của từng bị cáo.

[4] Xét về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo:

[4.1] Các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà hôm nay, các bị cáo đều có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải; Các bị cáo tự nguyện xin đầu thú tại cơ quan Công an nên cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy Đ tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự khi xem xét, quyết Đ hình phạt. Các bị cáo không pH chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy Đ tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[4.2] Do các bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, tỏ ra rất ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên không cần thiết pH áp dụng hình phạt tù giam, cho các bị cáo cải tạo tại địa phương cũng đủ giáo dục các bị cáo trở thành công dân biết tuân thủ pháp luật.

[5] Xét về hình phạt bổ sung: Các bị cáo mua, bán số lô, đề nhằm mục đích thu lợi bất chính nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Tuy nhiên, các bị cáo đều là lao động tự do, thu nhập không ổn Đ. Bị cáo L pH nuôi 2 mẹ già, bị cáo NpH nuôi con nhỏ, các bị cáo đều có đơn có xác nhận của địa phương về hoàn cảnh khó khăn nên có thể áp dụng mức phạt tiền thấp hơn quy Đ tại khoản 3 Điều 321 của Bộ luật hình sự.

[6] Về vật chứng của vụ án:

[6.1] Cần tịch thu sung Ngân sách Nhà 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3S vỏ màu đỏ, có số imei 1: 866269042398879, số imei 2: 866269042398861 lắp sim 1 số 0961.510.481, sim 2 số 0339.725.587, máy cũ đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, màu trắng, có số imei 35686061103057 gắn số sim thuê bao 0973.774.005, máy cũ đã qua sử dụng là công cụ phạm tội của các bị cáo.

[6.2] Về số tiền thu lợi bất chính: Sau khi có kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc, bị cáo L và bị cáo Nđã thanh toán xong số tiền đánh bạc ngày 3/11/2020, ngày 04/11/2020; bị cáo L đã thanh toán xong số tiền đánh bạc ngày 21/10/2020, ngày 3/11/2020, ngày 05/11/2020 với Hoàng Thị B; bị cáo L đã thanh toán xong số tiền đánh bạc ngày 01/11/2020, ngày 02/11/2020, ngày 03/11/2020 với Hoàng Thị B; bị cáo L đã nhận 230.000 đồng tiền mua số lô, số đề ngày 05/11/2020 của Nguyễn Văn L; bị cáo Nđã nhận 110.000 đồng tiền mua số lô, số đề của Hoàng Thị Đ ngày 27/10/2020 nên cần buộc các bị cáo và Hoàng Thị KpH nộp lại số tiền thu lời bất chính để sung Ngân sách nhà nước. Cụ thể như sau:

- Buộc bị cáo L pH nộp lại số tiền 8.408.000 đồng.

- Buộc bị cáo NpH nộp lại số tiền 4.110.000 đồng.

- Buộc Hoàng Thị KpH nộp lại số tiền 720.000 đồng.

[7] Về án phí: Các bị cáo pH chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy Đ của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị Nphạm tội “Đánh bạc”.

2. Về mức hình phạt: Căn cứ vào khoản 1 và khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật Hình sự;

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị L 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo L cho Uỷ ban nhân dân phường TX, thành phố B, tỉnh B giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Phạt bổ sung bị cáo L 5.000.000 đồng sung Ngân sách Nhà nước.

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị N06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 12 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Ncho Uỷ ban nhân dân phường TX, thành phố B, tỉnh B giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Phạt bổ sung bị cáo N5.000.000 đồng sung Ngân sách Nhà nước.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy Đ của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết Đ buộc người đó pH chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì áp dụng theo quy Đ tại khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3S vỏ màu đỏ, có số imei 1: 866269042398879, số imei 2: 866269042398861 lắp sim 1 số 0961.510.481, sim 2 số 0339.725.587, máy cũ đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, màu trắng, có số imei 35686061103057 gắn số sim thuê bao 0973.774.005, máy cũ đã qua sử dụng.

+ Buộc bị cáo L pH nộp lại số tiền 8.408.000 đồng; Buộc bị cáo NpH nộp lại số tiền 4.110.000 đồng; Buộc Hoàng Thị KpH nộp lại số tiền 720.000 đồng để sung ngân sách nhà nước.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc mỗi bị cáo pH chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết Đ được thi hành theo quy Đ tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người pH thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy Đ tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy Đ tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2021/HS-ST ngày 23/04/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:45/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về