Bản án 45/2021/HSST ngày 03/02/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 45/2021/HSST NGÀY 03/02/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 14/2021/HSST ngày 21 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 125/2021/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Huỳnh Thị Bích Đ, sinh ngày 11/10/1971; tại thành phố Đà Nẵng; Tôn giáo: Không; Dân tộc: Việt Nam; Giới tính: Nữ: Hộ khẩu thường trú: 245/75/5 Nguyễn T, Phường N, Quận M, Tp. Hồ Chí Minh; Chỗ ở hiện nay: 245/75/5 Nguyễn T, Phường N, Quận M, Tp. Hồ Chí Minh; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Nghề nghiệp: Không; Con ông Huỳnh Kim B (đã chết) và bà Trần Thị B2, sinh năm 1945; Chồng: Không rõ; Con: Có 02 con, lớn sinh năm 1990, nhỏ sinh năm 1992;

Tiền án: 01 tiền án. Ngày 28/02/2000, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo bản án số 574/HSST, đến ngày 27/5/2001 chấp hành xong án phạt tù, chưa được xóa án tích.

Tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 12/02/2000, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và ngày 17/02/2020 ra quyết định khởi tố bị can đối với Huỳnh Thị Bích Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 19/10/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 1 đã có công văn số 1064/ĐCSMT gửi đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa đề nghị phối hợp điều tra.

Bị bắt và tạm giam từ ngày: 16 tháng 10 năm 2020.

Những người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng:

1. Ông Phạm Văn T, sinh năm 1984 (vắng mặt);

Địa chỉ: 74 H, phường C, Quận M, Tp. Hồ Chí Minh.

2. Ông Nguyễn Hồng T2, sinh năm 1985 (vắng mặt);

Địa chỉ: 67 ấp 3, xã P, huyện N, Tp. Hồ Chí Minh.

3. Ông Trương V, sinh năm 1979 (vắng mặt);

Địa chỉ: 85/35 T, Phường N, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy, thông qua mối quan hệ ngoài xã hội, Huỳnh Thị Bích Đ biết tại khu vực Vòng xoay Trung Sơn, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh có một người tên “H3” (chưa rõ lai lịch) bán ma túy nên ngày 16/10/2020, Đ tìm đến khu vực trên mua của “H3” một gói ma túy đá giá 300.000 đồng, cất vào túi quần phía trước, bên phải và đem về nhà để sử dụng. Vào khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày 16/10/2020, Đ đang đứng trước nhà số 245/75/9 đường Nguyễn Trãi, Phường N, Quận M thì bị các anh Phạm Văn T, Nguyễn Hồng T2 (Cán bộ Công an Phường N, Quận M) phát hiện Đ là người bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa ra Quyết định truy nã nên tổ công tác đưa Đ về trụ sở Công an Phường N, Quận M làm rõ. Tại trụ sở Công an Phường, dưới sự chứng kiến của anh Trương V (Bảo vệ dân phố Phường N, Quận M), Đ tự lấy trong túi quần phía trước, bên phải của mình đang mặc ra 01 gói nylon chứa tinh thể không màu (Đ khai là ma túy để sử dụng) nên tổ công tác tiến hành thu giữ vật chứng, giao cho Công an Phường N, Quận M lập biên bản bắt người phạm tội quả tang sau đó chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 xử lý.

Theo bản Kết luận giám định số 1820/KLGĐ-H ngày 23/10/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận 01 (một) gói nylon được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay màu đỏ ghi chữ “Đ” và hình dấu Công an Phường N, Quận M, bên trong có: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,0251 gam, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra, Huỳnh Thị Bích Đ khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên, lời khai của Đ phù hợp với lời khai người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ mà cơ quan điều tra đã thu thập được.

Đối với đối tượng tên “H3” bán ma túy cho Đ, qua điều tra chưa xác định được nhân thân lai lịch; Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

* Vật chứng vụ án gồm có:

- 01 gói niêm phong bên trong có 1,0251 gam, loại Methamphetamine.

- Thu giữ của Huỳnh Thị Bích Đ:

+ 01 điện thoại di động hiệu Vivo, số Imei1: 868797043553538, số Imei2:

868797043553520.

Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 đang tạm giữ các vật chứng trên..

Tại bản cáo trạng số 21/CT-VKSQ1 ngày 15 tháng 01 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Huỳnh Thị Bích Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 tham gia phiên tòa kết luận bị cáo Huỳnh Thị Bích Đ đã pham tôi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung năm 2017. Sau khi phân tích hành vi phạm tội của bị cáo và đánh giá bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 đề nghị xử phạt bị cáo Huỳnh Thị Bích Đ từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù và căn cứ quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, đề nghị xử phạt bị cáo số tiền 5.000.000 đồng.

Đối với vật chứng của vụ án, căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 đề nghị Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong bên trong có 1,0251 gam, loại Methamphetamine. Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Vivo, số Imei1: 868797043553538, số Imei2:

868797043553520 do không liên quan đến hành vi phạm tội nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thông qua quá trình tranh tụng tại phiên tòa có đủ cơ sở kết luận do nghiện ma túy nên vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 16/10/2020, tại trước nhà số 245/75/9 đường Nguyễn Trãi, Phường N, Quận M, Huỳnh Thị Bích Đ có hành vi cất giữ 1,0251 gam Methamphetamine (căn cứ Theo Bản kết luận giám định số 1820/KLGĐ-H ngày 23/10/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh) để sử dụng cho bản thân, đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền của nhà nước về quản lý đối với các chất ma túy, gây mất trật tự an toàn của xã hội. Bản thân bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án xử về tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”, chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội. Do đó, bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, cần có mức án nghiêm khắc trước pháp luật mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.

Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa, nhận thấy bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là căn cứ giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự mà lẽ ra bị cáo phải chịu căn cứ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Ngoài ra, căn cứ khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung phạt bị cáo số tiền 5.000.000 đồng nộp ngân sách nhà nước.

Đối với đối tượng tên “H3” bán ma túy cho Đ, qua điều tra chưa xác định được nhân thân lai lịch; Cơ quan điều tra cần tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

[3]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ quy định tại Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong bên trong có 1,0251 gam, loại Methamphetamine;

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Vivo, số Imei1: 868797043553538, số Imei2: 868797043553520 do không liên quan đến hành vi phạm tội nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án;

[4]. Án phí hình sự sơ thẩm: 200.000 đồng bị cáo chịu.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Thị Bích Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt Huỳnh Thị Bích Đ 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 16 tháng 10 năm 2020.

Phạt bị cáo số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng nộp ngân sách Nhà nước.

- Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong bên trong có 1,0251 gam, loại Methamphetamine; (Theo phiếu nhập kho số 18/21-PNK ngày 04/01/2021) Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Vivo, số Imei1: 868797043553538, số Imei2: 868797043553520 (Theo phiếu nhập kho số 231/20-PNK ngày 28/12/2020) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Áp dụng Điều 135; 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Huỳnh Thị Bích Đ phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Áp dụng các Điều 331; 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2021/HSST ngày 03/02/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:45/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về