Bản án 45/2021/HNGĐ-ST ngày 17/02/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 45/2021/HNGĐ-ST NGÀY 17/02/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN     

Ngày 17 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 1223/2020/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 11 năm  2020  về  tranh  chấp  ly  hôn  theo  Quyết  định  đưa  vụ  án  ra  xét  xử  số:424/2020/QĐXX-ST ngày 29/12/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2021/QĐST- HNGĐ ngày 19/01/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Lâm Trung H, sinh năm 1978.

Địa chỉ: Tổ 2, ấp T, xã T1, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh (xin vắng mặt).

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Phương T, sinh năm 1987.

Địa chỉ: Ô 7, Khu B, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Long An (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời trình bày tại bản tự khai của nguyên đơn ông Lâm Trung H như sau:

Ông H và bà Nguyễn Thị Phương T xác lập quan hệ hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T1, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 17/8/2012. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được khoảng 03 năm thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên gây gổ, không tìm được tiếng nói chung trong hôn nhân. Ông bà đã ly thân từ năm 2015. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên ông yêu cầu ly hôn với bà T.

Về con chung: Quá trình chung sống, ông và bà T có 02 con chung tên Lâm Hoàng Ph, sinh ngày 05/3/2013 và Lâm Hoàng D, sinh ngày 15/12/2015. Sau khi ly hôn, ông đồng ý để bà T được tiếp tục nuôi dưỡng con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con: Ông cấp dưỡng nuôi con chung 1.000.000 đồng/01 con chung/01 tháng. Tổng số tiền cấp dưỡng hàng tháng là 2.000.000 đồng/02 con chung.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập bị đơn bà Nguyễn Thị Phương T tham gia tố tụng để giải quyết vụ án nhưng bà T vắng mặt không lý do và không gửi văn bản trình bày ý kiến nên không thể hiện ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định như sau:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Ông Lâm Trung H nộp đơn khởi kiện ly hôn với bà Nguyễn Thị Phương T có địa chỉ cư trú tại thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Long An nên căn cứ vào Điều 28; điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì đây là tranh chấp về ly hôn, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa.

[2] Về thủ tục tố tụng:

Nguyên đơn ông Lâm Trung H có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải và đơn xin vắng mặt trong phiên họp công khai chứng cứ nên căn cứ vào Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án trên thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được. Do đó, Tòa án tiến hành kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ vắng mặt các đương sự và không tiến hành hòa giải.

Ông H xin xét xử vắng mặt; bà T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông H, bà T theo quy định tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Ông H và bà T tự nguyện tiến đến hôn nhân có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T1, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 17/8/2012 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình

Căn cứ phần trình bày của ông H về mâu thuẫn của vợ chồng không thể hàn gắn, hiện không còn sống chung, không quan tâm lo lắng cho nhau, ông H vẫn giữ yêu cầu ly hôn với bà T, bị đơn bà T đã được Tòa án thực hiện các thủ tục tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng nhưng bà T vắng mặt không có lý do. Điều đó chứng tỏ bà T không còn quan tâm đến quan hệ hôn nhân, không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Từ đó cho thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa ông H và bà T là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân của các bên không đạt được, nên căn cứ Điều 56 của Luật Hôn nhân gia đình Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Lâm Trung H.

Về con chung: Ông H và bà T có 02 con chung tên Lâm Hoàng Ph, sinh ngày 05/3/2013 và Lâm Hoàng D, sinh ngày 15/12/2015, hiện các con đang sống cùng bà T.

Khi ly hôn, ông H đồng ý để bà T được tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung. Xét thấy, cháu Ph và cháu D từ lúc sinh ra đến nay cháu sống cùng bà T được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục phát triển khỏe mạnh, toàn diện. Từ năm 2015, ông H và bà T ly thân, các cháu vẫn sống cùng mẹ. Căn cứ vào điều kiện của các bên; quyền lợi về mọi mặt và lợi ích của con, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu Lâm Hoàng Ph và Lâm Hoàng D cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con: Ông H tự nguyện cấp dưỡng nuôi con hàng tháng với mức cấp dưỡng là 1.000.000 đồng đối với một con chung, được tính từ ngày Tòa án giải quyết vụ án cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Sự tự nguyện của ông H là phù hợp với quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử ghi nhận.

Về tài sản chung, nợ chung: Ông H trình bày không có và không yêu cầu giải quyết.

Bà T vắng mặt không lý do trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án và không thể hiện ý kiến về quyền nuôi con chung, mức cấp dưỡng, tài sản chung và nợ chung. Trường hợp, sau này các đương sự có phát sinh tranh chấp liên quan đến các vấn đề này được quyền khởi kiện thành vụ kiện khác.

[4] Về án phí: Nguyên đơn ông Lâm Trung H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ Điều 18, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của ông Lâm Trung H.

Về quan hệ hôn nhân: Ông Lâm Trung H được ly hôn với bà Nguyễn Thị Phương T.

Về con chung: Bà Nguyễn Thị Phương T được tiếp tục nuôi dưỡng hai con chung tên Lâm Hoàng Ph, sinh ngày 05/3/2013 và Lâm Hoàng D, sinh ngày 15/12/2015.

Về cấp dưỡng nuôi con: Ông Lâm Trung H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung tên Lâm Hoàng Ph, sinh ngày 05/3/2013 mỗi tháng 1.000.000 đồng và Lâm Hoàng D, sinh ngày 15/12/2015 mỗi tháng 1.000.000 đồng. Thời gian cấp dưỡng nuôi con được tính từ ngày 17/02/2021 cho đến khi cháu Lâm Hoàng Ph và cháu Lâm Hoàng D đủ 18 tuổi.

Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Khi cần thiết các bên có thể thay đổi việc nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự trình bày không có, không yêu cầu giải quyết.

Về án phí: Ông Lâm Trung H phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng mà ông H đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006853 ngày 12/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Hòa. Ông Lâm Trung H phải nộp tiếp 300.000 đồng.

Về quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 9 của Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2021/HNGĐ-ST ngày 17/02/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:45/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về