Bản án 45/2021/HNGĐ-ST ngày 10/05/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình ly hôn, nuôi con 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 45/2021/HNGĐ-ST NGÀY 10/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH LY HÔN, NUÔI CON 

Ngày 10 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cao lãnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 39/2021/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 01 năm 2021 về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình - Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 85/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 4 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 63/2021/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Nguyễn Thị Diệu L, sinh năm 1982.

Địa chỉ: đường Nguyễn Thị Định, khóm SĐ, thị trấn NB, huyện TB, tỉnh AG.

Bị đơn: Trần Phi T, sinh năm 1983.

Địa chỉ: ấp 7, xã BS, huyện CL, tỉnh ĐT.

(Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa sơ thẩm chị Nguyễn Thị Diệu L là nguyên đơn trình bày:

- Về hôn nhân: Vợ chồng sống chung với nhau vào năm 2000 và có đăng ký kết hôn tại UBND xã BS, huyện CL, tỉnh ĐT vào năm 2009. Thời gian đầu vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc nhưng thời gian sau này vợ chồng bắt đầu phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm trong cách sống làm cho hôn nhân bị rạn nứt, anh T thường xuyên đánh đập chị, ăn nhậu, ham chơi không lo lắng cho gia đình. Vợ chồng đã nhiều lần nói chuyện với nhau tìm cách giải quyết mâu thuẫn để tiếp tục sống chung nhưng không thành. Hiện nay vợ chồng đã sống ly thân được khoảng 4 năm nay. Nhận thấy hôn nhân không còn hạnh phúc nên chị Nguyễn Thị Diệu L yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị L được ly hôn với anh Trần Phi T.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Trần Cẩm X, sinh ngày 21/01/2003 và Trần Cẩm N, sinh ngày 29/10/2004. Hiện nay con chung tên Xuyến đang sống với anh T, con chung tên Ngọc đang sống với chị L. Khi ly hôn chị L yêu cầu được quyền nuôi con hai con chung và yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con hàng tháng, mỗi tháng là ½ tháng lương cơ sở cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ chung: Vợ chồng không có nợ ai và cũng không cho ai nợ.

Bị đơn là anh Trần Phi T đã được tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án và được triệu tập xét xử hợp lệ, biết nội dung yêu cầu khởi kiện của chị L nhưng không có ý kiến, không tham gia hòa giải và không có mặt tại phiên tòa sơ thẩm.

Tài liệu chứng cứ trong hồ sơ do đương sự cung cấp gồm: Giấy chứng nhận kết hôn của chị L và anh T (bản chính);

Trích lục khai sinh con chung Trần Cẩm X, Trần Cẩm N (bản sao);

Giấy CMND Nguyễn Thị Diệu L và Sổ hộ khẩu (photo);

Đơn xác nhận nơi cư trú của (bản chính);

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Chị Nguyễn Thị Diệu L có đơn yêu cầu được ly hôn với anh Trần Phi T. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự xác định quan hệ pháp luật trong vụ án này là “Tranh chấp hôn nhân và gia đình - Ly hôn, nuôi con”.

Anh Trần Phi T là bị đơn trong vụ kiện có địa chỉ tại huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân huyện Cao lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Trần Phi T là bị đơn trong vụ kiện nhưng anh T vẫn cố tình vắng mặt không có lý do và cũng không có ý kiến gì về việc xin ly hôn của chị L. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với Trần Phi T là phù hợp theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh T sống chung với nhau vào năm 2000 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã BS, huyện CL, tỉnh ĐT vào ngày 24/11/2009, do đó hôn nhân giữa chị L và anh T là hợp pháp. Trong quá trình chung sống chị L và anh T phát sinh nhiều mâu thuẫn, tranh cãi bất đồng quan điểm sống dẫn đến hôn nhân không hạnh phúc. Chị L và anh T không còn chung sống với nhau cũng như không còn quan tâm, chăm sóc nhau.

Khi giải quyết vụ kiện, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và triệu tập anh Trần Phi T tham gia phiên hòa giải, phiên tòa nhưng anh T vắng mặt không có lý do cũng như không có ý kiến hay biện pháp nào để hàn gắn tình cảm đối với yêu cầu ly hôn của chị L. Xét thấy hôn nhân giữa chị L và anh T lâm vào tình trạng trầm trọng, nên chị L yêu cầu ly hôn với anh T là có căn cứ để chấp nhận.

Từ những căn cứ nêu trên đủ cơ sở để xác định hôn nhân giữa chị L và anh T là mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận đơn yêu cầu ly hôn của chị L.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Trần Cẩm X, sinh ngày 21/01/2003 và Trần Cẩm N, sinh ngày 29/10/2004. Hiện nay con chung tên Xuyến đang sống với anh T, con chung tên Ngọc đang sống với chị L. Khi ly hôn, chị L yêu cầu được nuôi con chung là Cẩm Xuyến, Cẩm Ngọc. Do anh T vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án nên không có lời trình bày. Bên cạnh đó, theo bản tự khai ngày 09 tháng 3 năm 2021 thì con chung Trần Cẩm N có nguyện vọng sống chung với mẹ. Căn cứ vào quy định tại khoản 2 điều 81 Luật Hôn Nhân Gia Đình năm 2014 có quy định: “...; nếu con từ đủ 7 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con ”. Do đó, để bảo đảm sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần của cháu Cẩm Ngọc, cần tiếp tục giao cháu Cẩm Ngọc cho chị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị L yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con hàng tháng, mỗi tháng là ½ tháng lương cơ sở. Căn cứ vào khoản 2 điều 82 Luật Hôn Nhân Gia Đình năm 2014 cũng có quy định: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con ”.

Do đó, anh T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung hàng tháng, mỗi tháng bằng số tiền ½ tháng lương cơ sở tương ứng với thời gian thi hành án.

Thời gian cấp dưỡng được tính bắt đầu từ tháng 5/2021 cho đến khi con chung Trần Cẩm N, sinh ngày 29/10/2004 đủ 18 tuổi.

Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được quyền ngăn cản.

Về con chung là Trần Cẩm X đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị L trình bày vợ chồng không có tài sản chung, anh T không có ý kiến về tài sản chung, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: Chị L trình bày vợ chồng không có nợ chung, anh T không có ý kiến về nợ, không có yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Án phí: Chị Nguyễn Thị Diệu L phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm, anh Trần Phi T phải chịu án về cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại Điều 144 và khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39, Điều 144, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Diệu L.

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Diệu L được ly hôn với anh Trần Phi T.

Về con chung: Chị L được nuôi dưỡng con chung tên Trần Cẩm N, sinh ngày 29/10/2004.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Anh T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung hàng tháng, mỗi tháng bằng số tiền ½ tháng lương cơ sở tương ứng với thời gian thi hành án.

Thời gian cấp dưỡng được tính bắt đầu từ tháng 5/2021 cho đến khi con chung Trần Cẩm N, sinh ngày 29/10/2004 đủ 18 tuổi.

Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được quyền ngăn cản. Về con chung là Trần Cẩm X đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị Diệu L phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0012198 ngày 25 tháng 01 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lãnh. Như vậy chị L đã nộp xong tiền án phí.

Anh Trần Phi T phải chịu 300.000 đồng tiền án phí cấp dưỡng nuôi con Các đương sự được quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

107
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2021/HNGĐ-ST ngày 10/05/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình ly hôn, nuôi con 

Số hiệu:45/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lãnh - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về