Bản án 45/2020/HS-ST ngày 29/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH THỪA THIÊN H

BẢN ÁN 45/2020/HS-ST NGÀY 29/04/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 32/2020/TLST-HS ngày 19 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 3 năm 2020, Thông báo về việc thay đổi thời gian xét xử số 58/TB-TA ngày 01 tháng 4 năm 2020 và Thông báo về việc mở lại phiên tòa xét xử vụ án số 67/2020/TB-TA ngày 17 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Kim T, sinh ngày 23 tháng 4 năm 1991 tại tỉnh Thừa Thiên H; nơi cư trú: Số 127 đường Trần P, phường Phước V, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên Chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Kim A (Chết) và bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1959; gia đình có 05 anh, chị em ruột, bị cáo là con thứ 04; vợ, con: Chưa có.

* Quá trình nhân thân: Nhỏ ở với cha mẹ, học văn hóa đến lớp 09/12 thì nghỉ học ở nhà.

- Ngày 24/6/2013, bị Công an thành phố H xử phạt 1.000.000đồng (Một triệu đồng) về hành vi “Điều khiển xe mô tô không có giấy phép lái xe hạng A1” (Theo Quyết định số 0014278/QĐ/XPVPHC);

- Ngày 19/9/2015, bị Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 08 (Tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Tại Bản án số 227/2015/HSST). Ngày 16/02/2016 đã chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương;

- Ngày 26/10/2018, bị Công an phường Phước V, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H xử phạt 1.500.000đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng) về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (Theo Quyết định số 0002576/QĐ-XPVPHC);

- Ngày 25/12/2018, bị Công an phường Vĩnh N, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H xử phạt 1.500.000đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” (Theo Quyết định số 0002969/QĐ-XPVPHC).

Tiền án: Không; tiền sự: Có 02 tiền sự.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 14/11/2019, đến ngày 17/11/2019 chuyển tạm giam cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H, bị cáo có mặt.

- Bị hại: Ông Lê T (pháp danh Thích Tín T), sinh năm 1973; nơi cư trú: Số 10/65 đường Phan Bội C, phường Phước V, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H, vắng mặt (Đã ủy quyền cho ông Trần Viết Hoài T theo giấy ủy quyền ngày 14/11/2019).

- Người đại diện theo ủy quyền của bị hại: Ông Trần Viết Hoài T, sinh năm 1977; nơi cư trú: Số 10/65 đường Phan Bội C, phường Phước V, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H (Theo giấy ủy quyền ngày 14/11/2019), vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Lê Thúc T, sinh năm 1982; nơi cư trú: Số 24 đường Hàm N, phường Phước V, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 03 giờ 30 phút ngày 14/11/2019, Nguyễn Kim T đi bộ trên các tuyến đường ở thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H với mục đích trộm cắp tài sản. Khi đi đến chùa Phổ Q, số 10 kiệt 65 đường Phan Bội C, phường Phước V, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H, thấy cửa cổng chùa khép hờ không khóa nên T mở cửa đi vào trong khuôn viên chùa để tìm kiếm tài sản. Khi đi đến khu vực nhà ở thì thấy căn phòng đầu tiên phía bên phải của ông Lê T (Pháp danh Thích Tín T), là tu sĩ chùa Phổ Q, đèn sáng nhưng cửa khóa, nên T đi vòng ra phía sau để tiếp tục tìm kiếm tài sản, đúng lúc này ông Tuế mở cửa phòng để đi vệ sinh. Lợi dụng lúc đó, T liền đột nhập vào phòng ông T thì nhìn thấy 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus để trên bàn, cạnh giường ngủ, nên T lấy trộm rồi đi về nhà. Sau đó, T gọi điện thoại cho bạn là Nguyễn Thái C (Sinh ngày 30/3/1994, nơi cư trú: Số 12/20/130 đường Trần P, phường Phước V, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H) nhờ mua 300.000 đồng ma túy về sử dụng rồi trả tiền sau. C mua ma túy của một người không quen biết với số tiền 500.000đồng rồi đưa đến cùng T sử dụng. Sau khi sử dụng ma túy xong, C hỏi tiền mua ma túy thì T nói chưa có tiền. T đưa ra chiếc điện thoại và nói vừa mới lấy trộm được. T nói với C chở T đi tìm chỗ bán điện thoại để lấy tiền trả lại tiền mua ma túy, nên C đồng ý. Do trời chưa sáng, không có chỗ bán điện thoại nên T đến quán internet ở đường Phan Chu T để chơi, còn C về nhà ngủ. Đến khoảng 08 giờ 00 phút cùng ngày, C điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 75H8- 6666 chở T đến bán điện thoại hiệu Iphone 8 Plus vừa trộm cắp được cho anh Lê Thúc T. Do điện thoại có cài mật khẩu, nhưng T không mở được nên anh T không mua. T cất giữ điện thoại vào túi quần và vừa đi ra khỏi nhà anh T thì bị phát hiện bắt giữ.

* Vật chứng thu giữ: Cơ quan Công an đã thu giữ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus, màu đen, vỡ một góc nhỏ phía sau máy (Góc Camera), màn hình cường lực bị bong ở góc trái phía trên và bị bong ở góc dưới bên phải màn hình, số imei 356714083879037.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 305KL-HĐĐG ngày 14/11/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố H kết luận: 01 máy điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus, màu đen, vỡ một góc nhỏ phía sau máy (Góc Camera), số imei 356714083879037, đã qua sử dụng, tại thời điểm ngày 14/11/2019 có giá trị là 6.500.000đồng.

* Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã trả lại 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus, màu đen, số imei 356714083879037, đã qua sử dụng cho ông Lê T. Ông Lê T không có yêu cầu gì khác về dân sự.

Quá trình điều tra, Nguyễn Thái C đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, Nguyễn Thái C bỏ trốn nên ngày 06/02/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H ra Quyết định truy nã số 03 ngày 06/02/2020 và Quyết định tách vụ án hình sự số 01 ngày 06/02/2020 để xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số 46/CT-VKS-HS ngày 19/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H đã truy tố bị cáo Nguyễn Kim T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H vẫn giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Kim T phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Kim T từ 01 (Một) năm đến 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt tạm giữ 14/11/2019.

* Xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã trả lại 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus, màu đen, số imei 356714083879037, đã qua sử dụng cho ông Lê T. Ông T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

* Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Kim T phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Kim T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, xét lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các chứng cứ khác được thu thập tại hồ sơ vụ án, quá trình xét hỏi, tranh luận công khai tại phiên tòa đã làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 03 giờ 30 phút ngày 14/11/2019, tại chùa Phổ Q, địa chỉ số 10 kiệt 65 đường Phan Bội C, phường Phước V, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H, lợi dụng đêm khuya và mất cảnh giác trong việc trông coi, quản lý tài sản của chủ sở hữu, Nguyễn Kim T đã lén lút chiểm đoạt của ông Lê T (pháp danh Thích Tín T) 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus có giá trị 6.500.000 đồng (Sáu triệu năm trăm nghìn đồng). Với hành vi nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H đã truy tố bị cáo Nguyễn Kim T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét tính chất, mức độ hành vi của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo Nguyễn Kim T là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, mà còn ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an của địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị Tòa án xử phạt tù về tội “Trộm cắp tài sản” và đã bị Công an phường Vĩnh Ninh, thành phố H xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Tàng tữ trái phép chất ma túy và “Trộm cắp tài sản”. Lẽ ra, khi ra tù bị cáo phải lấy đó làm bài học cho bản thân để phấn đấu trở thành người tốt có ích cho gia đình và xã hội, nhưng vẫn tiếp tục phạm tội. Bởi vậy, đối với Nguyễn Kim T cần xét xử nghiêm và cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đảm bảo tính giáo dục bị cáo, đồng thời răn đe và phòng tội phạm. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét cho bị cáo tại cơ quan điều tra, cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

* Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã trả lại cho ông Lê T (Pháp danh Thích Tín T) 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus, màu đen, số imei 356714083879037, đã qua sử dụng. Ông Lê T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

* Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Kim T phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Kim T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Kim T 01 (Một) năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt tạm giữ 14/11/2019.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo Nguyễn Kim T phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2020/HS-ST ngày 29/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:45/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về