Bản án 45/2020/HS-ST ngày 28/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 45/2020/HS-ST NGÀY 28/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 41/2020/ TLST-HS, ngày 17 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/ 2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Mai Văn T(tên thường gọi: Cường), sinh ngày 24/10/1991 tại xã An Dục, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình; Nơi cư trú: thôn Việt T, xã An D, huyện Quỳnh P, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Xuân Chiến, sinh năm 1966 và con bà Vũ Thị Toan, sinh năm 1971. Nơi cư trú: Thôn Việt T, xã An D, huyện Quỳnh P, tỉnh Thái Bình; có vợ Hà Thị Nguyệt, sinh năm 1994 và có 01 con sinh năm 2019;

Tiền sự: Không;

Tiền án: Bản án số 83/2018/HS - ST ngày 16/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 06/5/2019 chấp hành xong.

Nhân thân: Quyết định số 1988/QĐ-UB ngày 26/6/2013 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Thái Bình áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc, thời hạn 12 tháng, tại Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục – Lao động xã hội thành phố Thái Bình, ngày 15/6/2014 chấp hành xong. Ngày 19/01/2020 có hành vi cướp giật tài sản tại huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương bị bắt quả tang. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương.

Ngày 19/5/2020, Tòa án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương xử phạt 42 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”.

Bị hại: Ông Nguyễn Ngọc S, sinh năm 1952. Nơi cư trú: Thôn Việt T, xã An D, huyện Quỳnh P, tỉnh Thái Bình;

Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Hà Thị Ng, sinh năm 1994, trú tại thôn Việt T, xã An D, huyện Quỳnh P, tỉnh Thái Bình (Tại phiên tòa bị cáo T trích xuất có mặt; ông Sính, chị Nguyệt vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 01 giờ ngày 15/01/2020, Mai Văn T mang theo chiếc tuốc nơ vít và chiếc chìa khóa Việt Tiệp. Khi đi qua công trình xây dựng nhà mới của ông Nguyễn Ngọc Sính ở cùng thôn. T vào nhà ông Sính để trộm cắp tài sản. T thấy trên nền gian nhà đang xây dựng có để 01 máy cắt gạch men nhãn hiệu Maktec và 01 máy mài gạch men nhãn hiệu Makita, đều là máy cầm tay màu xanh ghi, liền cầm 02 chiếc máy đi ra sân thì thấy trên sân có để chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RS, sơn màu đỏ đen, đeo biển kiểm soát 17K9-2013, không khóa cổ, không khóa càng, liền để 02 chiếc máy lên bụng xe rồi dong xe ra đường thôn cách nhà ông Sính khoảng 50 mét thì dừng lại, dùng tuốc nơ vít mang theo tra vào ổ khóa điện vặn theo chiều kim đồng hồ thì đèn mo bật sáng. T tiếp tục dùng tuốc nơ vít mở cốp xe thì thấy bên trong có 01 đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 17K9-2013 số đăng ký 034603 mang tên Ngô Văn Tình, địa chỉ thôn Ô Mễ 2, xã Tân Phong, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình và 01 chiếc áo đi mưa đã cũ rách. Sau khi đóng cốp xe lại, T nổ máy, điều khiển xe đến ngã ba thôn Đại Điền, xã An Vũ thì gặp một người phụ nữ khoảng 45 tuổi, không rõ tên, địa chỉ đang thu gom rác ở lề đường. T bán cho người phụ nữ này 02 chiếc máy vừa trộm cắp được lấy 120.000 đồng rồi điều khiển xe sang thành phố Hải Phòng để bán xe nhưng không bán được. Quá trình di chuyển, chiếc tuốc nơ vít bị rơi đâu T không rõ nên dùng chiếc chìa khóa Việt Tiệp mang theo tra vào ổ khóa điện để khởi động xe. Ngày 19/01/2020, T điều khiển chiếc xe trên sang xã Hưng Đạo, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương cướp giật tài sản của chị Nguyễn Thị Hiền, sinh năm 1979, trú tại thôn Mễ, xã Hưng Đạo, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương thì bị bắt quả tang.

Ngày 15/01/2020, ông Nguyễn Ngọc S có đơn trình báo Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Quỳnh Phụ đề nghị giải quyết. Qua trao đổi thông tin tội phạm, ngày 07/02/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương đã bàn giao hồ sơ, vật chứng là chiếc xe mô tô, chìa khóa Việt Tiệp và đăng ký xe nêu trên cho Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình để điều tra theo thẩm quyền.

Bản kết luận định giá tài sản ngày 10/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Quỳnh Phụ kết luận: “Xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE RS màu đỏ đen trị giá 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm nghìn đồng). Máy cắt gạch men cầm tay, màu xanh ghi trị giá 800.000 đồng (Tám trăm nghìn đồng). Máy mài gạch men cầm tay, màu xanh ghi trị giá: 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng). Tổng trị giá tài sản là 4.400.000 đồng (Bốn triệu bốn trăm nghìn đồng)” Bản kết luận giám định số 48/KLGĐ-PC09 ngày 20/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Tại thời điểm giám định, xe mô tô gửi giám định loại xe nữ, dán nhãn hiệu Honda Wave RS, sơn màu đỏ - đen, đeo BKS 17K9-2013. Hàng chữ, chữ số RLHHC09055Y468516 đóng trên khung xe không bị tẩy xóa, sửa chữa, đục lại. Hàng chữ, chữ số HC09E – 6468573 đóng trên thân máy không bị tẩy xóa, sửa chữa, đục lại”.

Bản kết luận giám định số 26/KLGĐ-PC09 ngày 26/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận về việc giám định đăng ký xe mô tô số 034603 như sau:

“1. Mẫu in Đăng ký xe mô tô, xe máy cần giám định là thật.

2.1. Có dấu vết tẩy xóa tại các mục:“Số máy”; “Số khung”; “Biển số đăng ký” vị trí chữ số “9”; “Đăng ký lần đầu ngày” vị trí tháng, năm trên Đăng ký xe mô tô, xe máy cần giám định.

2.2. Không xác định được nội dung trước khi bị tẩy xóa trên Đăng ký xe mô tô, xe máy cần giám định.

2.3. Từ “Đen” tại mục “Màu sơn” trên Đăng ký xe mô tô, xe máy cần giám định là từ điền thêm”.

Bản cáo trạng số 46/CT-VKSQP ngày 16/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình truy tố Mai Văn Tvề tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Ti phiên toà: Bà kiểm sát viên thực hành quyền công tố kiểm sát xét xử tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Mai Văn T như tội danh và điều luật được viện dẫn trong bản cáo trạng nêu trên. Đề nghị Hội đồng xét xử: T bố bị cáo Mai Văn Tphạm tội “Trộm cắp tài sản”; Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h, khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Mai Văn Ttừ 01 năm 03 tháng tù đến 01 năm 06 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong nên không xem xét.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng khoản 1 điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu tiêu hủy 01 chìa khóa Việt Tiệp; 01 đăng ký xe mô tô, xe máy số 034603 mang tên Ngô Văn Tình, địa chỉ thôn Ô Mễ 2, xã Tân Phong, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình; 01 biển kiểm soát 17K9-2013.

Về án phí: Bị cáo Mai Văn Tphải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa: Bị cáo Mai Văn Tthừa nhận đã lén lút lấy các tài sản nêu trên và nhất trí với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát, bị cáo không có ý kiến gì khác.

Bị hại ông Nguyễn Ngọc Sính vắng mặt nhưng đã có lời khai, ông Sính đã nhận đủ số tiền 900.000 đồng, ông không yêu cầu bị cáo phải bồi thường khoản tiền nào và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo T.

Li nói sau cùng bị cáo Mai Văn Trất hối hận về hành vi trộm cắp tài sản, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người bào chữa thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định có tội: Đơn trình báo và biên bản ghi lời khai của bị hại: Ông Nguyễn Ngọc S, sinh năm 1952, trú tại thôn Việt T, xã An D, huyện Quỳnh P, tỉnh Thái Bình; Bản sao biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản làm việc do Công an xã Hưng Đạo, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương lập hồi 07 giờ 20 phút, 11 giờ 30 phút ngày 19/01/2020; Bản kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình; Sơ đồ hiện trường do Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Quỳnh Phụ lập và do bị cáo tự mô tả; Biên bản ghi lời khai của anh Ngô Văn Tình, sinh năm 1985, trú tại thôn Ô Mễ 2, xã Tân Phong, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình; chị Hà Thị Nguyệt, sinh năm 1994, trú tại thôn Việt T, xã An D, huyện Quỳnh P, tỉnh Thái Bình;

Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 01 giờ ngày 15/01/2020, tại nhà ở của ông Nguyễn Ngọc S, sinh năm 1952, trú tại thôn Việt T, xã An D, huyện Quỳnh P, tỉnh Thái Bình, bị cáo Mai Văn Tđã có hành vi trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE RS, màu đỏ đen, biển kiểm soát 17K9-2013 trị giá 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm nghìn đồng); 01 máy cắt gạch men cầm tay, màu xanh ghi trị giá 800.000 đồng (Tám trăm nghìn đồng); 01 máy mài gạch men cầm tay, màu xanh ghi trị giá 100.000 đồng (Một trăm nghìn đồng). Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 4.400.000 đồng (Bốn triệu bốn trăm nghìn đồng). Do đó bị cáo Mai Văn T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Điều 173 Bộ luật Hình sự: Tội trộm cắp tài sản

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

............

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”.

[3] Về tính chất và mức độ nguy hiểm: Hành vi trộm cắp tài sản mà bị cáo T thực hiện đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của ông Sính được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an khu vực xảy ra tội phạm.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên phải chịu tình tiết tăng nặng “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố bị cáo đã “Thành khẩn khai báo”, bị cáo T đã tác động để gia đình “Tự nguyện bồi thường thiệt hại”; bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Bị cáo T có nhân thân xấu, bị cáo đã bị Tòa án kết án và bị áp dụng biện pháp hành chính.

[7] Về hình phạt chính: Do bị cáo Mai Văn Tphạm tội với tình tiết tăng nặng “tái phạm”. Mức đề nghị của bà Kiểm sát viên về hình phạt tù từ 01 năm 03 tháng tù đến 01 năm 06 tháng tù đối với bị cáo T là tương xứng với hành vi phạm tội của của bị cáo. Hội đồng xét xử xét áp dụng hình phạt tù có thời hạn theo Điều 38 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo T để bị cáo có ý thức tuân theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh phòng chống tội phạm.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo Mai Văn Ttại phiên tòa bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Mai Văn T.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Chị Hà Thị Nguyệt (vợ bị cáo) đã bồi thường số tiền 900.000 đồng cho ông Nguyễn Ngọc Sính tương ứng với trị giá của chiếc máy mài và máy cắt. Ông Sính đã nhận đủ tiền và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường bất cứ khoản nào khác và có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Ông Sính và chị Nguyệt không có yêu cầu đề nghị gì khác.

[10] Chiếc xe mô tô đeo biển kiểm soát 17K9-2013 nêu trên có số khung C09055Y468516, số máy HC09E6468573 không bị sửa chữa, tẩy xóa, đục lại và trùng với số khung, số máy của chiếc xe được đăng ký theo biển kiểm soát 34M4-5293 mang tên Hà Thị Hồng Hạnh, có địa chỉ tại xã Hà Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương nhưng hiện xã Hà Kỳ không có công dân nào có tên Hà Thị Hồng Hạnh. Chiếc xe có số khung, số máy như trên không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Ông Nguyễn Ngọc Sính khai ông mua chiếc xe trên của một người đàn ông khoảng 40 tuổi, không rõ tên, địa chỉ tại khu vực ngã tư Vũ Hạ, xã An Vũ, huyện Quỳnh Phụ với giá 10.000.000 đồng vào tháng 6/2008 nhưng không làm giấy tờ mua bán mà người bán chỉ đưa cho ông giấy đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 17K9-2013 mang tên Ngô Văn Tình, ông Sính đã kiểm tra thấy giấy đăng ký xe ghi số khung, số máy và biển kiểm soát trùng với số khung, số máy và biển kiểm soát đeo trên xe. Xét thấy việc mua xe của ông Sính là ngay tình, ông không phát hiện thấy giấy đăng ký xe đã bị sửa chữa và từ năm 2008 đến nay ông vẫn sử dụng chiếc xe trên mà không có ai tranh chấp gì, hiện ông là bị hại trong vụ án nên ngày 31/3/2020 Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe nêu trên cho ông Sính. Đối với chiếc áo mưa đã cũ rách, không còn giá trị sử dụng, ông Sính không đề nghị gì, cơ quan điều tra không yêu cầu định giá.

Qua điều tra xác định giấy đăng ký xe mô tô số 034603 đã được cấp cho xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave anpha sơn màu đỏ, biển kiểm soát 17K1-2013 của anh Ngô Văn Tình, địa chỉ thôn Ô Mễ 2, xã Tân Phong, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Năm 2007, anh đã làm rơi mất chiếc đăng ký xe trên và anh đã làm lại đăng ký này để sử dụng đến nay. Chiếc biển kiểm soát 17K9-2013 đã được cấp, đăng ký cho xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave apha, sơn màu đỏ đen của ông Phạm Quang Khuynh, sinh năm 1950, trú tại tổ 39, phường Bồ Xuyên, thành phố Thái Bình. Khoảng tháng 7/2007, ông Khuynh đã bán chiếc xe này cho một người đàn ông không rõ tên địa chỉ, việc mua bán không có giấy tờ gì. Đến nay, anh Tình và ông Khuynh không có yêu cầu, đề nghị gì nên Cơ quan điều tra chuyển theo hồ sơ vụ án, chờ xử lý là có căn cứ.

[11] Tại phiên tòa: Bị cáo Mai Văn Tthừa nhận hành vi phạm tội đúng với nội dung bản cáo trạng đã công bố và không có ý kiến tranh luận gì đối với lời luận tội của Kiểm sát viên.

[12] Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự cần tịch thu và tiêu hủy: Tịch thu và tiêu hủy: 01 đăng ký xe mô tô, xe máy số 034603 nhãn hiệu WAVE ALPHA mang tên Ngô Văn Tình, địa chỉ thôn Ô Mễ 2, xã Tân Phong, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, số máy HC09E -6468573, số khung C09066Y468516; 01 chìa khóa Việt Tiệp có chữ 9281733; 01 biển kiểm soát 17K9-2013 đã bị vỡ lớp nhựa không còn sử dụng được.

[13] Đối với chiếc máy mài và máy cắt gạch men cầm tay đã trộm cắp được, T khai đã bán cho một người phụ nữ không rõ tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không thu hồi được.

[14] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Mai Văn Tchịu phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[15] Về quyền kháng cáo: Bị cáo T, ông Sính, chị Nguyệt có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật Tố tụng hình sự.

[16] Những chứng cứ buộc tội của Kiểm sát viên và lời trình bày của bị cáo T phù hợp với tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[Vì các lẽ trên; 

QUYẾT ĐỊNH

1. T bố bị cáo Mai Văn T(tên thường gọi: Cường) phạm tội "Trộm cắp tài sản".

2. Áp dụng khoản 1 Điều173; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự. 3. Xử phạt bị cáo Mai Văn T(Cường) 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, tính từ ngày chấp hành bản án.

4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu và tiêu hủy: 01 đăng ký xe mô tô, xe máy số 034603 nhãn hiệu WAVE ALPHA mang tên Ngô Văn Tình, địa chỉ thôn Ô Mễ 2, xã Tân Phong, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, số máy HC09E - 6468573, số khung C09066Y468516; 01 chìa khóa Việt Tiệp có chữ 9281733;

01 biển kiểm soát 17K9-2013 đã bị vỡ lớp nhựa không còn sử dụng được (Vật chứng đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình theo Phiếu nhập kho ngày 17/4/2020).

5. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Mai Văn Tphải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Mai Văn Tcó quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày T án (ngày 28 tháng 5 năm 2020). Ông Sính, chị Nguyệt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2020/HS-ST ngày 28/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:45/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về