Bản án 45/2020/HS-ST ngày 17/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TD, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 45/2020/HS-ST NGÀY 17/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 42/2020/TLST-HS ngày 21/8/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2020/QĐXXST-HS ngày 04/9/2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn V, sinh năm 2001 tại xã Kim Long, huyện TD, Vĩnh Phúc.

Nơi cư trú: Thôn Đồng Tâm, xã Kim Long, huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: Không; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1979 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1978; vợ, con: Không; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị cáo tại ngoại, có mặt.

Bị hại: Chị Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1977; nơi cư trú: Thôn Đồng Tâm, xã Kim Long, huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc; có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1978; nơi cư trú: Thôn Đồng Tâm, xã Kim Long, huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo cáo trạng cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 8 giờ ngày 11/5/2020, Nguyễn Văn V đến nhà chị Nguyễn Thị Ng ở thôn Đồng Tâm, xã Kim Long, huyện TD để trộm cắp tài sản. Khi đến nhà chị Ng, thấy không có người ở nhà nên V trèo tường chui vào trong bếp lục tìm tài sản trong chiếc hòm bằng gỗ nhưng không thấy. Sau đó, V vào phòng khách nhà chị Ng trộm cắp 01 tivi nhãn hiệu SAMSUNG, loại 43 inch, màu đen để trên bàn gỗ đặt ở góc tường với mục đích bán kiếm tiền để chơi game. V về nhà lấy 01 ba lô rồi quay lại nhà chị Ng lấy chiếc điều khiển cho vào ba lô, rút dây cắm điện và ôm tivi đi ra ngoài bằng cửa bếp phía sau vườn nhà chị Ng rồi đi ra ngõ, V gặp một người đàn ông đi thu mua sắt vụn nên V bán tivi cùng chiếc điều khiển cho người này với số tiền 600.000 đồng và sử dụng hết vào việc chi tiêu cá nhân.

Tại kết luận định giá tài sản số 22/KL-HĐĐGTS ngày 26/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện TD kết luận: Giá trị còn lại của 01 tivi thông minh, nhãn hiệu SAMSUNG, loại 43 Inch, màu đen đã qua sử dụng tại thời điểm tháng 5 năm 2020 là 4.200.00 đồng.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai bị hại, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Tại bản Cáo trạng số 44/CT-VKSTD ngày 21/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TD đã truy tố Nguyễn Văn V về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn V phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b,h,i,s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo V từ 06 tháng đến 09 tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về tang vật: tịch thu tiêu hủy 01 đôi dép nhựa xốp màu xanh đục của V.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện TD, điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện TD, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự tố tụng của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Tại phiên tòa lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, biên bản thu giữ vật chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 8 giờ ngày 11/5/2020, Nguyễn Văn V đã vào nhà chị Nguyễn Thị Ng trộm cắp 01 chiếc tivi thông minh, nhãn hiệu SAM SUNG, loại 43 Inch, màu đen cùng 01 điều khiển tivi với trị giá tài sản là 4.200.000đ đồng. Sau đó, V bán tivi và chiếc điều khiển trộm cắp được với giá 600.000 đồng và tiêu xài cá nhân hết. Hành vi của V đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Tội phạm và hình phạt được quy định như sau:

Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm”.

[3] Đánh giá tính chất vụ án tuy ít nghiêm trọng nhưng hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do vậy, cần phải xử lý bị cáo thật nghiêm mới có tác dụng giáo dục riêng và đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo tác động đến gia đình để bồi thường cho bị hại; hành vi phạm tội của bị cáo gây thiệt hại không lớn và phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Ngoài ra, tại phiên tòa bị hại cũng đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, h, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Căn cứ vào tính chất lỗi, mức độ nguy hiểm cho xã hội, Hội đồng xét xử xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhiều tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục. Việc áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo đối với bị cáo không nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Bị cáo V có khả năng tự cải tạo để trở thành công dân có ích cho xã hội như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện TD tại phiên tòa là phù hợp với quy định của pháp luật.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng...

Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện bị cáo không có tài sản riêng, không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Đối với người đàn ông thu mua sắt vụn đã mua chiếc ti vi và chiếc điều khiển, V không biết tên, địa chỉ của người đàn ông này nên cơ quan cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.

Đối với chị Nguyễn Thị H: Số tiền chị H đã bồi thường cho thay cho bị cáo, tại phiên tòa chị H không yêu cầu gì nên không đề cập giải quyết.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và gia đình bị cáo đã thỏa thuận với nhau về việc bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[9] Về tang vật: Đối với 01 phiếu mua hàng ngày 11/5/2020 có đóng dấu treo của công ty TNHH Thương mại VHC – Vĩnh Phúc; 01 phiếu biên nhận của Công ty TNHH Thương mại VHC, trên phiếu có ghi thông tin: Họ và tên người mua hàng Nguyễn Thị Ng ở thôn Đồng Tâm, xã Kim Long, huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc, thời gian giao hàng: 13/02/2020, tên sản phẩm tivi Sam Sung đơn giá 8.790.000 đồng. Đây là tài liệu vật chứng chị Ng đã giao nộp cho cơ quan điều tra, tại phiên tòa chị Ng không yêu cầu được nhận lại nên được lưu trữ tại hồ sơ vụ án. Còn 01 đôi dép nhựa xốp màu xanh đục đã qua sử dụng của V không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1.Về hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b,h,i,s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự; khoản 3 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V 07 (Bảy) tháng tù, cho hưởng án treo.

Thời gian thử thách là 1 năm 02 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân xã Kim Long, huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 đôi dép nhựa xốp màu xanh đục lỗ tròn nhỏ, trên đôi dép có gắn biểu tượng hình elip nhỏ màu đỏ - trắng có ghi chữ B-M của bị cáo V.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 của Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2020/HS-ST ngày 17/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:45/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Dương - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về