Bản án 45/2020/HNGĐ-ST ngày 30/11/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO LÂM, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 45/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/11/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 30 tháng 11 năm 2020, tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số 45/2020/TLST- HNGĐ ngày 29 tháng 4 năm 2020 về việc ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 30 tháng 10 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1994 HKTT: Tổ 11, thị trấn L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng Địa chỉ: Tổ 9, thị trấn L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng.

- Bị đơn: Anh Ngũ Văn T, sinh năm 1990 Địa chỉ: Tổ 11, thị trấn L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng Chị H, anh T đều có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 11/3/2020 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh Ngũ Văn T chung sống với nhau từ năm 2013, có thời gian tìm hiểu nhau khoảng 02 năm mới tiến tới hôn nhân. Việc chung sống là tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và được hai bên gia đình đồng ý. Vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng ngày 14/01/2013. Sau khi kết hôn vợ chồng đăng ký thường trú, sống ổn định tại tổ 11, thị trấn L, huyện B cho đến nay.

Quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, cãi vã xung đột nhau. Chị H trình bày anh T thường xuyên nhậu nhẹt, khuyên bảo không nghe. Có lần anh T nhậu về đã đập phá đồ đạc trong nhà, đánh chị H. Mâu thuẫn cứ kéo dài ảnh hưởng đến tinh thần của chị và con cái. Anh T cũng đã yêu cầu chị làm đơn ly hôn nhưng chưa gửi Tòa án. Nay mâu thuẫn đã trầm trọng, ly thân từ ngày nộp đơn ly hôn đến nay nhưng cả hai không thể hàn gắn đoàn tụ, tình cảm vợ chồng không còn, nếu kéo dài ảnh hưởng đến tinh thần của nhau nên chị H yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị H trình bày quá trình chung sống chị và anh Ngũ Văn T có hai con chung tên là Ngũ Thị Tuyết N, sinh ngày 30/5/2013 và Ngũ Tường V, sinh ngày 16/8/2018. Từ khi ly thân thì chị H đang giao con cho anh T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng vì anh T không cho chị đưa con đi, không cho chăm sóc nuôi dưỡng con. Anh T có yêu cầu chị H khi Tòa án giải quyết xong vụ án thì anh sẽ chấp hành. Nay ly hôn chị H yêu cầu được nuôi con là Ngũ Tường V và đồng ý giao con Ngũ Thị Tuyết N cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi các con đủ 18 tuổi, cả hai không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Chị H trình bày chị và anh Ngũ Văn T tự thỏa thuận về tài sản và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị H trình bày chị và anh Ngũ Văn T không có nợ chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản ghi lời khai 28/5/2020, bị đơn anh Ngũ Văn T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh T thừa nhận về thời gian tìm hiểu, đám cưới và đăng ký kết hôn như chị H trình bày là đúng. Sau khi kết hôn được khoảng 01 năm thì vợ chồng mua nhà ở riêng và chung sống ổn định tại tổ 11, thị trấn L, huyện B cho đến nay, vợ chồng cùng làm việc tại Công ty Nhôm Lâm Đồng. Quá trình chung sống thì vợ chồng sống bình thường, anh T thừa nhận là có nhậu nhẹt nên khi say có nặng lời với chị H nên dẫn đến vợ chồng cãi vã nhau, anh T có tát chị H nhưng sau đó vợ chồng đã làm hòa tiếp tục chung sống cho đến nay. Chị H trình bày anh đe dọa tinh thần là không đúng. Khi chị H nói ly hôn thì anh nóng giận cũng có nói là vậy thì cứ gửi đơn đi chứ bản thân anh không muốn ly hôn. Anh T trình bày có mâu thuẫn nhưng không trầm trọng, anh vẫn yêu thương vợ con nên yêu cầu Tòa án hòa giải cho vợ chồng đoàn tụ, tiếp tục chung sống và nuôi con.

Về con chung: Anh T cũng thừa nhận vợ chồng có hai con chung là Ngũ Thị Tuyết N, sinh ngày 30/5/2013 và Ngũ Tường V, sinh ngày 16/8/2018. Anh T mong muốn vợ chồng đoàn tụ để cùng nhau chăm sóc và nuôi dạy con cái. Nếu chị H kiên quyết ly hôn và yêu cầu nuôi con là Ngũ Tường V thì anh không ý kiến gì. Tại phiên họp về chứng cứ và hòa giải ngày 26/8/2020 thì anh T yêu cầu nuôi cả hai con chung và không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Anh T trình bày anh và chị H tự thỏa thuận về tài sản và không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Anh T trình bày vợ chồng không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã mở phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải ngày ngày 26/8/2020 nhưng không thành.

Tại phiên tòa hôm nay chị H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Anh T bổ sung ý kiến nếu chị H kiên quyết ly hôn thì anh T đồng ý ly hôn, các vấn đề khác vẫn giữ nguyên như cũ.

Kết thúc phần tranh luận, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm tham gia phiên tòa phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và về việc giải quyết vụ án như sau: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H, xử cho chị H và anh T được ly hôn. Về con chung cần xem xét giao con chung là Ngũ Thị Tuyết N, sinh ngày 30/5/2012 cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng, giao con chung là Ngũ Tường V, sinh ngày 16/8/2018 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng đến khi các con đủ 18 tuổi, chị H, anh T không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung tự thỏa thuận không yêu cầu giải quyết nên không xem xét, về nợ chung không có nên không xem xét giải quyết. Về án phí yêu cầu giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Ngũ Văn T chung sống với nhau từ năm 2013, hôn nhân tự nguyện, có thời gian tìm hiểu và yêu thương nhau, có tổ chức lễ cưới theo phong tục và được hai bên gia đình đồng ý. Vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng ngày 14/01/2013. Đây là quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập, thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nên được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau ổn định, có nhà ở tại tổ 11, thị trấn L, huyện B, cùng làm việc một cơ quan, cùng nuôi dạy con cái. Tuy nhiên vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn. Chị H trình bày anh T thường xuyên nhậu nhẹt, đập phá đồ đạc, đánh chị, đe dọa tinh thần chị và các con. Anh T cũng thừa nhận có nhậu nhẹt, có chửi bới và có tát chị H nhưng tình cảm vợ chồng vẫn còn nên mong muốn vợ chồng đoàn tụ. Quá trình xác minh thì vợ chồng chị H anh T có phát sinh mâu thuẫn và chị H đã dọn ra ở riêng, anh T cũng đã có trình báo địa phương về sự việc trên. Từ khi nộp đơn ly hôn đến nay đã trên 06 tháng nhưng vợ chồng vẫn không hàn gắn đoàn tụ. Tại phiên tòa chị H vẫn kiên quyết yêu cầu giải quyết ly hôn và anh T cũng đồng ý. Xét thấy cuộc sống hôn nhân của chị H và anh T đã mâu thuẫn trầm trọng, không thể hàn gắn đoàn tụ, vợ chồng sống không hạnh phúc, tình cảm vợ chồng không còn, nếu kéo dài thì ảnh hưởng đến cuộc sống riêng tư của hai người và ảnh hưởng đến con cái. Vì vậy căn cứ vào Điều 5, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 xử cho chị H và anh T được ly hôn là có căn cứ và đúng pháp luật.

Về con chung: Xét lời khai của chị H và anh T, căn cứ bản sao giấy khai sinh chị H xuất trình cho Tòa án thì hai người có hai con chung là Ngũ Thị Tuyết N, sinh ngày 30/5/2013 và Ngũ Tường V, sinh ngày 16/8/2018. Xem xét nguyện vọng nuôi con của chị H và anh T nhận thấy hiện nay cả hai đều có việc làm ổn định, có thu nhập và đủ khả năng nuôi con. Nguyện vọng của cháu Nhi được ở với bố, còn cháu Vy đang còn nhỏ dưới 36 tháng tuổi cần người mẹ chăm sóc. Vì vậy để đảm bảo sự phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức của các con, căn cứ vào các điều 70, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 giao con chung là Ngũ Thị Tuyết N, sinh ngày 30/5/2013 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, giao con là Ngũ Tường V, sinh ngày 16/8/2018 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các con đủ 18 tuổi là có căn cứ và đúng pháp luật. Chị H, anh T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung: Chị H và anh T tự thỏa thuận về tài sản và không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

Về nợ chung: Chị H và anh T thống nhất trình bày không có nợ chung nên không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng Dân sự, áp dụng Nghị quyết 326/2016/NQ- UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Đây là vụ án không có giá ngạch, cần buộc chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 235, Điều 266 Bộ Luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 5, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các điều 70, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, áp dụng Nghị quyết 326/2016/NQ- UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H đối với anh Ngũ Văn T về việc “Ly hôn”.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị H và anh Ngũ Văn T được ly hôn.

2. Về con chung: Chị Nguyễn Thị H có trách nhiệm giao con chung là Ngũ Thị Tuyết N, sinh ngày 30/5/2013 cho anh Ngũ Văn T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi (anh T đang nuôi con). Anh Ngũ Văn T có trách nhiệm giao con chung là Ngũ Tường V, sinh ngày 16/8/2018 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi. Chị H, anh T không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình”.

3. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Ngũ Văn T tự thỏa thuận về tài sản và không yêu cầu giải quyết nên không đề cập đến.

4. Về án phí: Buộc chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị H đã nộp tại biên lai nộp tiền số AA/2016/0019617 ngày 29/4/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2020/HNGĐ-ST ngày 30/11/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:45/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lâm - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về