Bản án 45/2020/HNGĐ-ST ngày 23/07/2020 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH A 

BẢN ÁN 45/2020/HNGĐ-ST NGÀY 23/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Trong ngày 23 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 25/2020/TLST-HNGĐ ngày 21/01/2020 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 109/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 08/7/2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: bà Trần Thị M , sinh năm 1973 (có mặt). Địa chỉ: tổ 6, ấp T, thị trấn O , huyện T, tỉnh A .

2. Bị đơn: ông Đỗ Bá H , sinh năm 1966 (có mặt). Địa chỉ: tổ 6, ấp T, thị trấn O , huyện T, tỉnh A .

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai ngày 13/3/2020 và tại phiên tòa nguyên đơn bà Trần Thị M trình bày: bà M với ông H chung sống với nhau vào năm 1996, có tổ chức lễ cưới và có giấy khai đăng ký kết hôn ngày 07/11/1996, có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã V nhưng đến nay chưa có giấy chứng nhận kết hôn. Thời gian chung sống, bà M với ông H sinh được hai con chung tên Đỗ Phương Hồng T , sinh năm 1997 và Đỗ Thị Phương D , sinh năm 2001. Suốt thời gian chung sống, hai người thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông H không lo làm ăn, mọi chi tiêu sinh hoạt trong gia đình và lo cho hai con ăn học đều do bà M gánh vác. Mặc dù bà M đã khuyên ngăn nhưng ông H không thay đổi. Vì vậy, bà M nhiều lần có ý định ly hôn với ông H nhưng vì thương con nên bà cố gắng duy trì quan hệ hôn nhân. Đến tháng 10 năm 2017, mâu thuẫn giữa hai người ngày càng trầm trọng. Sau đó, ông H đã đuổi bà M ra khỏi nhà nên bà M lên nhà chị của bà M ở huyện T sinh sống cho đến nay. Tuy bà M và ông H không còn ở chung nhà nhưng bà M vẫn thường xuyên quan tâm và gửi tiền cho các con ăn học.

Quá trình chung sống, bà M với ông H không có tài sản chung và không có nợ chung. Nay mâu thuẫn giữa bà M và ông H gay gắt nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:

- Về hôn nhân: bà M yêu cầu được ly hôn với ông Đỗ Bá H .

- Về con chung: có hai con chung tên Đỗ Phương Hồng T và Đỗ Thị Phương D. Anh T và chị D đã trưởng thành nên bà M không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung và nợ chung: không có.

Tại biên bản hòa giải ngày 13/3/2020, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn ông Đỗ Bá H trình bày: ông H với bà M tiến đến hôn nhân vào thời gian nào thì ông không nhớ, vì thời gian đã quá lâu. Ông và bà M có tổ chức lễ cưới và có giấy khai đăng ký kết hôn ngày 07/11/1996, có xác nhận của UBND. Tuy nhiên, đến nay chưa có giấy chứng nhận kết hôn. Thời gian đầu, ông H với bà M sống hạnh phúc và sinh được hai con chung tên Đỗ Phương Hồng T , sinh năm 1997 và Đỗ Thị Phương D , sinh năm 2001. Quá trình chung sống, tuy ông với bà M có phát sinh một số mâu thuẫn nhưng không đáng kể. Nguyên nhân mâu thuẫn được bà M trình bày là không đúng. Vì suốt thời gian chung sống, ông H vẫn quan tâm đến gia đình và lo cho các con ăn học. Đến tháng 10 năm 2017, do bà M có mối quan hệ với người đàn ông khác nên ông và bà M phát sinh mâu thuẫn và thường cãi vã nhau. Trong lúc tức giận, ông H đã đuổi bà M ra khỏi nhà. Sau đó, ông H có điện thoại hỏi thăm nhưng bà M không nghe điện thoại. Vì vậy, hai người đã sống ly thân từ tháng 10 năm 2017 đến nay. Bà M yêu cầu ly hôn thì ông H có ý kiến như sau:

- Về hôn nhân: ông H không đồng ý ly hôn với bà Trần Thị M .

- Về con chung: anh Đỗ Phương Hồng T và chị Đỗ Thị Phương D đã trưởng thành nên ông H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung và nợ chung: không có.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng và ý kiến việc giải quyết vụ án: Thẩm phán xác định đúng quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết. Quá trình tiến hành tố tụng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về xét xử sơ thẩm vụ án. Nguyên đơn và bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định tại các điều 70, 71 và 72 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Ý kiến về việc giải quyết vụ án: qua xem xét toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:

- Về quan hệ hôn nhân: không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Trần Thị M và ông Đỗ Bá H .

- Về quan hệ con chung: có hai con chung tên: Đỗ Phương Hồng T , sinh ngày 18 tháng 8 năm 1997 và Đỗ Thị Phương D , sinh ngày 23 tháng 8 năm 2001. Anh T và chị D đã trưởng thành nên không xét đến.

- Về tài sản chung và nợ chung: không có.

- Về án phí sơ thẩm: bà M yêu cầu ly hôn nên phải nộp 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình - ly hôn, theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn ông Đỗ Bá H đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp T, thị trấn O , huyện T, tỉnh A , nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: bà Trần Thị M với ông Đỗ Bá H tự nguyện chung sống với nhau từ năm 1996, nhưng đến nay vẫn chưa được cấp giấy chứng nhận kết hôn. Do quan hệ hôn nhân giữa bà M và ông H không được đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên không có giá trị pháp lý.

[2.1] Xét yêu cầu ly hôn của bà M, thấy rằng: bà M với ông H chung sống hạnh phúc thời gian đầu nhưng đến tháng 10 năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng nên không còn sống chung từ thời gian đó cho đến nay. Do bà M và ông H ly thân đã lâu và không còn tình cảm với nhau nên bà M yêu cầu ly hôn với ông H .

[2.2] Về phía bị đơn ông Đỗ Bá H thì cho rằng, ông với bà M có mâu thuẫn nhưng không đáng kể nên ông không đồng ý ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy, bà M với ông H sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Tại phiên tòa, bà M vẫn nhất quyết ly hôn với ông H . Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa bà M với ông H đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Tại khoản 2 Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Trong trường hợp không có đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này”. Bà M yêu cầu ly hôn với ông H , nhưng do bà M và ông H không có đăng ký kết hôn nên không được pháp luật công nhận là vợ chồng, mà cần tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Trần Thị M và ông Đỗ Bá H .

[3] Về quan hệ con chung: bà M và ông H có hai con chung tên Đỗ Phương Hồng T , sinh năm 1997 và Đỗ Thị Phương D , sinh năm 2001. Anh T và chị D đã trưởng thành nên bà M và ông H không yêu cầu giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xét đến.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: không có.

[5] Về án phí: bà Trần Thị M yêu cầu giải quyết ly hôn nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 9, Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 24 và Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị M .

1.1. Về quan hệ hôn nhân: không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Trần Thị M và ông Đỗ Bá H .

1.2. Về quan hệ con chung: bà M và ông H có hai con chung tên Đỗ Phương Hồng T , sinh ngày 18 tháng 8 năm 1997 và Đỗ Thị Phương D , sinh ngày 23 tháng 8 năm 2001. Anh T và chị D đã trưởng thành.

1.3.Về quan hệ tài sản: không có.

1.4. Về nợ chung: ghi nhận bà M và ông H xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án này có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của bà M và ông H trong thời kỳ hôn nhân thì bà Trần Thị M và ông Đỗ Bá H phải liên đới trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: bà Trần Thị M phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000752 ngày 21/01/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh A.

3. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2020/HNGĐ-ST ngày 23/07/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:45/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Châu - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về