Bản án 45/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUYÊN HÓA, TỈNH QUẢNG BÌNH

 BẢN ÁN 45/2019/HS-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 46/2019/TLST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Đức A, sinh ngày 26/11/1990 tại xã P, huyện T, tỉnh Quảng Bình; tên gọi khác: Phạm Văn A; nơi cư trú: Thôn S, xã P, huyện T, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: trồng trọt; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không tôn giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Xuân H (đã chết) và bà Nguyễn Thị H; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Sinh ra và lớn lên học đến lớp 09/12 thì bỏ học. Ngày 20/12/2010 thực hiện hành vi “cướp giật tài sản”, bị Toà án nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 12 tháng tù. Ngày 01/8/2013 phạm tội “trộm cắp tài sản” bị Toà án nhân dân thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông xử phạt 24 tháng tù. Ngày 30/6/2019 tiếp tục thực hiện hành vi “trộm cắp tài sản” bị Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa xử phạt 09 tháng tù tại bản án số 43/2019/HS-ST ngày 18/11/2019; bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tuyên Hóa kể từ ngày 25/10/2019; bị cáo có mặt tại phiên tòa theo lệnh trích xuất.

- Bị hại: Anh Võ Thành D, sinh năm 1981

Địa chỉ: Thôn S, xã P, huyện T, tỉnh Quảng Bình “có mặt”

 - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Thế A, sinh năm 1990

Địa chỉ: Thôn M, xã P, huyện T, tỉnh Quảng Bình “vắng mặt”

- Người làm chứng: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1981

Địa chỉ: Thôn S, xã P, huyện T, tỉnh Quảng Bình “có mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 17/10/2019 Phạm Đức A đến nhà của anh Võ Thành D ở cùng thôn để chơi, Khi vào nhà, thấy chị Nguyễn Thị H (là vợ của anh D) đang nấu ăn ở dưới bếp, A mở cửa nhà chính đi vào phòng khách và nhìn vào phòng ngủ, thấy có một điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG J7 Pro, loại màn hình cảm ứng, vỏ màu xanh nhạt đang sạc pin, A liền đi vào phòng ngủ lấy điện thoại bỏ vào túi quần rồi đi về nhà. Sau khi lấy trộm được điện thoại, A đưa đến tiệm sửa chữa điện thoại di động của anh Nguyễn Thế A ở Thôn M, xã P cầm cố với giá 1.300.000đ, rồi tiêu xài cá nhân hết.

Tại Bản Kết luận định giá tài sản số: 39/KL-HĐĐG ngày 23/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tuyên Hóa xác định: Một điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG J7 Pro có giá tại thời điểm bị chiếm đoạt là 2.100.000đ (hai triệu một trăm nghìn đồng chẵn).

Vật chứng vụ án: Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuyên Hóa đã thu giữ: Một điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG J7 Pro, loại màn hình cảm ứng, màu xanh nhạt, máy đã qua sử dụng.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra Nguyễn Thế A yêu cầu Phạm Đức A phải bồi thường số tiền 1.300.000 đồng.

Hành vi phạm tội của Phạm Đức A đã được cơ quan điều tra làm rõ.

Tại bản Cáo trạng số: 46/CT-VKSTH-HS ngày 12/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình đã truy tố Phạm Đức A về tội: “trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu lời luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm h, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt Phạm Đức A từ 06 đến 09 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 BLHS, Điều 584, Điều 589 Bộ luật Dân sự buộc Phạm Đức A phải bồi thường cho Nguyễn Thế A số tiền 1.300.000 đồng. Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng2 của cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi phạm tội: Lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý và bảo vệ tài sản của bị hại, Phạm Đức A đã có hành vi lén lút lấy trộm tài sản của anh Võ Thành D. Tài sản mà Phạm Đức A chiếm đoạt có giá trị tại thời điểm mất là 2.100.000 đồng.

[3] Trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội đó phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ về thời gian, địa điểm, loại tài sản, giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt, ý kiến của Kiểm sát viên. Do đó đã đủ cơ sở để khẳng định bị cáo Phạm Đức A phạm tội “trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đúng như Bản cáo trạng và Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hoá.

[4] Hội đồng xét xử nhận định: Hành vi của bị cáo Phạm Đức A là cố ý trực tiếp chiếm đoạt tài sản của anh D, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội cần được xử lý nghiêm. Vì vậy cần áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 để lên cho bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Ngày 30/6/2019 bị cáo Phạm Đức A có hành vi “trộm cắp tài sản” bị Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa xử phạt 09 tháng tù tại bản án số 43/2019/HS-ST ngày 18/11/2019. Vì vậy việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết.

[5] Tuy nhiên Hội đồng xét xử cũng xem xét cho bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, quá trình điều tra và tại phiên toà đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy cần áp dụng các điểm h, s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án: Sau khi xác định chủ sở hữu ngày 01/11/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuyên Hóa đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp anh Võ Thành D chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG J7 Pro, loại màn hình cảm ứng, màu xanh nhạt, đã qua sử dụng. Việc xử lý vật chứng của Cơ quan điều tra đúng theo quy định của pháp luật.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Nguyễn Thế A yêu cầu Phạm Đức A bồi thường số tiền 1.300.000 đồng, đây là số tiền cầm cố điện thoại do Phạm Đức A trộm cắp nhưng Nguyễn Thế A không biết nên cần áp dụng Điều 48 BLHS, Điều 584, Điều 589 BLDS buộc Phạm Đức A phải bồi thường cho Nguyễn Thế A số tiền 1.300.000 đồng.

[8] Trong vụ án này có Nguyễn Thế A là người mua chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG J7 Pro do Phạm Đức Anh trộm cắp, nhưng khi mua Nguyễn Thế A không biết tài sản đó do trộm cắp mà có nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hóa không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Thế A.

[09] Về án phí: Bị cáo Phạm Đức A phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Đức A phạm tội: "trộm cắp tài sản".

Căn cứ khoản 1 Điều 173; các điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt Phạm Đức A 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 25/10/2019. Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày theo quyết định của Hội đồng xét xử.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 584, Điều 589 Bộ luật dân sự, buộc Phạm Đức A bồi thường cho Nguyễn Thế A số tiền 1.300.000đ (một triệu ba trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án đến khi thi hành xong, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất được xác định theo khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

Quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Án phí: Bị cáo Phạm Đức A phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, bị hại, vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tuyên bố bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án ngày 28/11/2019. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết bản án tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:45/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuyên Hóa - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về