Bản án 45/2019/HS-ST ngày 25/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 45/2019/HS-ST NGÀY 25/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 11 năm 2019 tại Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 46/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:44/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

BÙI VĂN L, sinh ngày 07 tháng 6 năm 1977 tại xã V - Lạc Sơn - Hòa Bình. Nơi cư trú: Xóm Ấ, xã V, huyện L, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn K (đã chết) và bà Bùi Thị T (đã chết); bị cáo có vợ là Bùi Thị A và 01 con sinh năm 2000; tiền án: Ngày 28/3/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13/8/2019, tạm giam từ ngày 22/8/2019. Có mặt tại phiên tòa.

- Người tham gia tố tụng khác:

Người chứng kiến:

Anh Bùi Văn T, sinh năm 1982. Trú tại: Xóm Ấ, xã V, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.

Ông Bùi Văn B, sinh năm 1975. Trú tại: Xóm Ấ, xã V, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 21 giờ 30 phút, ngày 13 tháng 8 năm 2019, tại xóm Ấ, xã V, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình, Tổ công tác Công an huyện Lạc Sơn phối hợp với Công an xã V phát hiện, bắt quả tang Bùi Văn L đang cầm trên tay trái 04 gói giấy bên trong có chứa chất bột màu trắng. Bị cáo khai là ma túy mua được của một người đàn ông không quen biết tại xã Mỹ Thành, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình lúc khoảng 20 giờ, ngày 13/8/2019 với giá 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng.

Tang vật thu giữ được tại giai đoạn điều tra gồm: 04 gói giấy bên trong chứa chất bột màu trắng.

Theo kết luận giám định số 212/KLGĐ-CAT-PC09, ngày 20/8/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình thì 04 mẫu chất bột màu trắng thu giữ từ Bùi Văn L là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,17g (Không phẩy mười bảy gam). Heroine là chất ma túy nằm trong danh mục I, số thứ tự: 09, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP, ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tại Bản cáo trạng số 46/CT-VKS ngày 04/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình đã truy tố bị cáo Bùi Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo tại xã Mỹ Thành, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình, Cơ quan điều tra không xác định được nhân dạng, căn cước nên không có căn cứ xem xét, xử lý.

Tại phiên tòa:

Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung quyết định truy tố tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo. Xác định tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là thành khẩn khai báo, bị cáo là người dân tộc thiểu số sống tại vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51của Bộ luật hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 20 tháng đến 24 tháng tù. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo do bị cáo là người không có điều kiện về kinh tế. Về vật chứng của vụ án: đề nghị tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong chứa chất ma túy là mẫu vật hoàn lại sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình; không có ý kiến gì về nội dung cáo trạng phản ánh; không kêu oan. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin miễn án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử những người tham gia tố tụng không có khiếu nại, tố cáo hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên.

[2] Về căn cứ xác định tội danh, điều luật áp dụng đối với bị cáo: Ngày 13/8/2019, bị cáo Bùi Văn L đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy; đã mang theo người (cầm trên tay) 04 gói Heroine có tổng khối lượng là 0,17g (Không phẩy mười bảy gam) Heroine mà không nhằm mục đích vận chuyển, mua bán, sản xuất trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo phù hợp với lời khai người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Loại ma túy bị cáo tàng trữ là Heroine có khối lượng nằm trong khoảng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam. Do vậy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. Cáo trạng truy tố bị cáo theo tội danh, điều khoản luật áp dụng là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi của bị cáo: Tội phạm mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội; đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền các chất gây nghiện của Nhà nước được pháp luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an địa phương. Bản thân bị cáo là người có nhận thức xã hội, có hiểu biết pháp luật, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự nhưng lại nghiện chất ma túy, không từ bỏ được ma túy. Ma túy không chỉ làm hại chính bản thân bị cáo về sức khỏe, tài chính mà còn là hiểm họa của xã hội, là nguyên nhân gây suy kiệt giống nòi và là nguồn gốc phát sinh các loại tội phạm khác. Do vậy, cần áp dụng đối với bị cáo mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo; cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đủ để cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích và để phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo trước đó đã bị xét xử về tội phạm ma túy, chưa được xóa án tích lại phạm tội. Do vậy, lần phạm tội này bị coi là tái phạm nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Tại giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đều đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015. Ngoài ra, xét bị cáo là người dân tộc thiểu số, bị cáo sống tại vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên phần nào ảnh hưởng đến nhận thức xã hội của bị cáo; bị cáo thuộc diện hộ nghèo theo quy định của Chính phủ. Đây là những tình tiết Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc, xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015.

[5] Về hình phạt bổ sung: xét bị cáo là người có thu nhập không ổn định, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án: Vật chứng là 04 gói mẫu vật hoàn lại sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình bên trong chứa các chất ma túy (heroine) là vật Nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu, tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tuy nhiên, xét bị cáo bị cáo sống tại vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, bị cáo xin được miễn án phí hình sự sơ thẩm nên Hội đồng xét xử xem xét miễn án phí cho bị cáo theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Bùi Văn L 20 (Hai mươi) tháng tù, thời hạn tù tính ngày tạm giữ 13/8/2019.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong mẫu giám định ma túy của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình số 109 ngày 14/8/2019, ghi tên đối tượng Bùi Văn L, mép dán có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự và chữ ký của thành phần tham gia niêm phong, bên trong có chứa 04 mẫu chất ma túy, loại heroine (gói 1: 0,02g; gói 2: 0,03g; gói 3: 0,01g; gói 4: 0,02g) có tổng khối lượng là 0,08g (Không phẩy, không tám gam) còn lại sau giám định.

(Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình theo Biên bản giao nhận vật chứng và Phiếu nhập kho số NK 0007 ngày 05/11/2019).

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Miễn cho bị cáo Bùi Văn L 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2019/HS-ST ngày 25/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:45/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về