Bản án 45/2019/HS-ST ngày 25/04/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 45/2019/HS-ST NGÀY 25/04/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 48/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2019, đối với bị cáo:

Trần Chí L, sinh năm 1996, tại Cà Mau; nơi cư trú: Ấp H, xã N, huyện Đ, tỉnh C; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa (học vấn): 08/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Văn BA và bà Phạm Thị T; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 22-12-2018 đến ngày 23-12-2018; ngày 16-01-2019, bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay; có mặt.

- Bị hại: Ông Trần C B, sinh năm 1997; hộ khẩu thường trú: Khóm 5, p 1, thành phố C, tỉnh C; tạm trú: Khu phố Ô, phường T, thị xã T, tỉnh B; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Công ty V; địa chỉ: Đoàn Văn N, Phường 12, Quận 5, Thành phố H;

Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Hoàng N; địa chỉ: Số 60, đường Đ Biên P, phường 2, quận B, Thành phố H, là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 26-3-2019); vắng mặt.

2. Công ty Mai P T; địa chỉ: Khu phố 4, phường M, thị xã B, tỉnh B;

Người đại diện hợp pháp: Ông Trịnh Đ L, Giám đốc công ty, là người đại diện theo pháp luật; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Chí L và Trần C B có mối quan hệ là bạn với nhau, cùng làm việc tạiCông ty Khang Đức Thịnh, địa chỉ: Khu phố Ô, phường T, thị xã T, tỉnh B.

Khoảng 21 giờ 30 ngày 21-12-2018, L điều khiển xe mô tô hiệu Honda Wave, màu trắng (chưa có biển số) đi từ phòng trọ của L tại tổ 4, khu phố Ông Đông, phường Tân Hiệp, thị xã Tân Uyên đến phòng trọ của B để chơi. Do đã khuya nên L nói với B cho L ngủ lại thì B đồng ý. Trước khi ngủ B có sử dụng điện thoại di động hiệu OPPO F9 của B để đặt chuông báo thức. Đến khoảng 05 giờ 45 phút ngày 22-12-2018, chuông báo thức của điện thoại vang lên, B dùng tay tắt chuông báo thức rồi tiếp tục ngủ đến khoảng 06 giờ cùng ngày thì B và L cùng thức dậy để chuẩn bị đi làm. Khi dậy, B cầm điện thoại di động lên xem giờ, xem xong B để điện thoại lên trên tấm nệm của phòng trọ rồi đi vào nhà vệ sinh. Lúc này, L nhìn thấy điện thoại di động của B đang nằm trên nệm, do không có tiền tiêu xài cá nhân nên L nảy sinh ý định chiếm đoạt điện thoại của B bán lấy tiền tiêu xài. Thực hiện ý định, L liền dùng tay phải lấy điện thoại OPPO F9 và bỏ vào túi quần bên trái của L.

Sau khi lấy được điện thoại, L liền đẩy xe môtô hiệu Honda Wave ra trước cửa phòng trọ và nói lớn “Tao chạy về phong trọ đánh răng rồi chạy qua chở mày đi làm”, nói xong L điều khiển xe mang theo điện thoại OPPO F9 đi về phòng trọ của L. Khi về, L lấy điện thoại OPPO F9 vừa chiếm đoạt được cất giấu tại kệ nhựa của bếp tại phòng trọ. Cùng thời gian này, B phát hiện điện thoại OPPO F9 của mình bị mất nên tìm kiếm nhiều nơi trong phòng trọ nhưng không thấy. Khoảng 10 phút sau, L điều khiển xe đi đến phòng trọ của B để chở B đi làm, lúc này B hỏi L có thấy điện thoại của B không, L trả lời không thấy và nói B tìm kỹ lại trong phòng xem. Do biết nhà trọ Lê Duy Hoàng có gắn camera nên B nói với L cùng ra gặp chủ nhà trọ để xem coi có người nào đi vào phòng trọ của B không, xem được khoảng 10 phút nhưng không thấy có người nào vào phòng của B nên B nói L đi làm trước đi còn B tiếp tục ngồi xem nhưng vẫn không thấy có người nào khác đi vào phòng của mình. Lúc này, B nghi ngờ L chính là người đã lấy điện thoại của mình nên đã trình báo toàn bộ sự việc đến Công an phường Tân Hiệp. Công an phường Tân Hiệp tiến hành mời L đến làm việc, quá trình làm việc L khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp điện thoại của B. Sau đó, Công an phường Tân Hiệp tiến hành lập hồ sơ ban đầu và tạm giữ vật chứng, đồ vật có liên quan gồm:

01 điện thoại di động hiệu OPPO F9, màu tím, có ốp lưng bằng nhựa màu trắng; 01 xe mô tô hiệu Honda Wave, màu trắng, không có biển số; 01 điện thoại di động hiệu SamSung J3, màu vàng đồng, bị bể màn hình do Trần Chí L giao nộp.

Sau khi hoàn tất hồ sơ ban đầu, Công an phường Tân Hiệp chuyển toàn bộ hồ sơ đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên thụ lý giải quyết theo thẩm quyền.

Tại bản Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 20/KLTS-TTHS ngày 11-01-2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã Tân Uyên kết luận: 01 điện thoại di động hiệu OPPO F9, màu tím đã qua sử dụng là 5.770.000 đồng; 01 ốp lưng bằng nhựa màu trắng đã qua sử dụng là 20.000 đồng.

Cáo trạng số 54/CT-VKS-TU ngày 02-4-2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố bị cáo Trần Chí L về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Trần Chí L từ 06 (Sáu) đến 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tuyên: Trả lại cho bị cáo 01 xe mô tô hiệu Honda Wave, màu trắng, không có biển số; 01 điện thoại di động hiệu SamSung J3, màu vàng đồng, bị bể màn hình.

Bị cáo thống nhất với hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên rất hối hận, ăn năn hối cải và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nh hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an thị xã Tân Uyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Chí L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Ngày 22-12-2018, lợi dụng sơ hở của bị hại ông Trần C B trong việc quản lý tài sản, bị cáo đã lén lút thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của bị hại là 01 điện thoại di động hiệu OPPO F9, màu tím, giá trị tài sản tại thời điểm chiếm đoạt là 5.790.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, Cáo trạng số 54/CT-VKS-TU ngày 02-4-2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3 Hành vi trên đây của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác được pháp luật Bảo vệ. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì tham lam và vì động cơ tư lợi nên đã cố ý phạm tội. Do đó, cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện để có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét toàn diện về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nh đối với bị cáo.

[4 Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5 Về tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị hại có đơn xin bãi nại giảm nh hình phạt cho bị cáo; đây là tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bản thân bị cáo chấp hành tốt chính sách pháp luật tại địa phương, có nơi cư trú r ràng, bản thân bị cáo có khả năng tự cải tạo, việc không bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù thì không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Do đó, Hội đồng xét xử xét áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo, cho bị cáo được hưởng án treo.

[6] Xét thấy, mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên đề nghị đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. 

8. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

[8.1] Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên đã ban hành Quyết định xử lý vật chứng số 51 ngày 24-01-2019 trả lại điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F9, màu tím và 01 ốp lưng bằng nhựa màu trắng cho ông Trần C B, là phù hợp.

[8.2] Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, không có biển số, số máy 0753886, số khung 773717, đã qua sử dụng, không có kính chiếu hậu hai bên, do bị cáo mua của Công ty TNHH một thành viên xe máy Mai Phương Thảo theo hình thức vay thế chấp của Công ty V và 01 điện thoại di động hiệu SamSung J3, màu vàng đồng, bị bể màn hình là tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo.

[9] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 46, 47; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Trần Chí L phạm tội Trộm cắp tài sản.

Xử phạt bị cáo Trần Chí L 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Thời gian thử thách là 01 (Một) năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (25-4-2019).

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường Tân Hiệp, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 (Hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

 Trả lại cho bị cáo 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, không có biển số, số máy 0753886, số khung 773717, đã qua sử dụng, không có kính chiếu hậu 02 (hai) bên, không kiểm tra được tình trạng máy móc bên trong và 01 (Một) điện thoại di động hiệu SamSung J3, màu vàng đồng, đã qua sử dụng, tình trạng bị bể màn hình, có số IMEL1: 359929/07/423934/1; IMEL2: 359930/07/423934/9.

((Theo Biên bản giao nhận vật chứng ng y 04-4-2019 giữa C quan Cảnh sát Điều tra Công an thị xã Tân Uyên v Chi cục Thi h nh án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dư ng).

3. Về án phí sơ thẩm: Buộc bị cáo Trần Chí L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2019/HS-ST ngày 25/04/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:45/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về