Bản án 45/2019/HS-ST ngày 18/01/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H – TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 45/2019/HS-ST NGÀY 18/01/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 18 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 31/2018/TLST-HS ngày 03 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2018/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 12 năm 2018 đốivới các bị cáo:

Họ và tên: Bùi Trịnh Q; tên gọi khác: không; sinh ngày 09 tháng 6 năm 1964 tại thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; Nơi cư trú: Tổ 72, khu 8, phường C, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 07/10; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn V (đã chết) và bà Ninh Thị T, sinh năm 1927; vợ: Đặng Thị Th (đã ly hôn); con 01 con sinh năm 1989; tiền án: ngày 18/7/2008 bị Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 06 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/4/2013; ngày 24/3/2015, bị Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 24/01/2017; tiền sự: chưa; bị bắt quả tang ngày 03/10/2018 hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh QuảngNinh .Có mặt tại phiên tòa.

Họ và tên: Phạm Văn H; tên gọi khác: không; sinh ngày 24 tháng 12 năm 1960 tại huyện T, thành phố Hải Phòng; Nơi ĐKNKTT: Tổ 6, khu 1, phường Y, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; chỗ ở: Tổ 7, khu 1, phường Y, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 07/10; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Trường P sinh năm 1939 và bà Chu Thị T (đã chết); vợ: Hoàng Thị Y sinh năm: 1970; con 02 con, lớn sinh năm 1992, nhỏ sinh năm 2002; tiền án, tiền sự: chưa; nhân thân: ngày 28/9/2005 bị Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị bắt ngày 04/10/2018 hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh. Có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng:

- Phạm Mạnh Q1, sinh năm: 1991;

Trú tại: Tổ 4, khu 6, phường H1, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh;

- Lê Văn T; sinh năm: 1968;

Trú tại: Tổ 4, khu 5, phường H2, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh;

Đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 20 giờ 45 phút, ngày 03/10/2018 tạiđoạn đường thuộc tổ 29, khu 3, phường C, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; Phòng Cảnh sát điều tra về ma túy Công an tỉnh Quảng Ninh phối hợp với công an phường C, thành phố H phát hiện bắt quả tang Bùi Trịnh Q có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Qua kiểm tra, Q tự giao nộp 05 gói giấy nhỏ, bên trong mỗi gói đều có chất bột màu trắng; 01 điện thoại di động Nokia màuđen đã cũ (bút lục 43- 45).

Ngay sau khi bị bắt, Bùi Trịnh Q khai nhận nguồn gốc số ma túy bị thu giữ trên mua của Phạm Văn H. Cơ quan điều tra đã tiến hành bắt, khám xét nơi ở của Phạm Văn H. Qua khám xét thu giữ của H 01 điện thoại di động màu đen đã cũ, 01 sim số thuê bao 0385.874.212 (bút lục 58, 61, 62).

Tại bản kết luận giám định số 632/GĐMT ngày 05/10/2018 của Phòng kỹ thuận hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, kết luận: chất bột màu trắng trong 05 gói giấy (ký hiện từ M1- M5) trong phong bì niêm phong ghi: Vật chứng thu giữ của Bùi Trịnh Q ngày 03/10/2018 là ma túy, loại Heroin, tổng khối lượng là 0,095 gam.

Qua quá trình điều tra Bùi Trịnh Q và Phạm Văn H đều khai nhận: Q và H có quan hệ bạn bè ngoài xã hội và thường xuyên sử dụng ma túy nên Q biết H có ma túy để bán. Khoảng 19 giờ ngày 03/10/2018 Q gọi điện cho H hỏi mua ma túy, H đồng ý hẹn Q đến 20 giờ cùng ngày sẽ có ma túy bán. Đến 20 giờ cùng ngày, khi Q đang ở nhà thì nhận được cuộc gọi của Phạm Mạnh Q1 (sinh năm 1991, trú tại tổ 4, khu 6, phường Hà Lầm, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh) điện hỏi mua 05 gói ma túy (loại Heroin) và thỏa thuận mỗi gói giá 100.000 đồng. Q liền đến nhà của H mua 01 gói ma túy giá 200.000 đồng rồi đem về chia ra thành 05 gói nhỏ để bán cho Q1 như đã thỏa thuận trước, còn lại một ít Q sử dụng hết. Sau đó, Q cầm 05 gói ma túy ra đứng trước cửa nhà nghỉ Ngọc Mai thuộc tổ 29, khu 3, phường C, thành phố H để bán cho Q1 thì bị công an kiểm tra bắt quả tang. Về nguồn gốc số ma túy H khai mua của một người tên Hiền hay Hiên (không rõ lai lịch cụ thể) vào khoảng 18 giờ ngày 03/10/2018 tại khu vục chân dốc mắm tôm thuộc phường Y, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh với giá 400.000 đồng để sử dụng. Khi Q muốn mua H bán một phần cho Q với giá 200.000 đồng. Ngoài ra Q còn khai nhận nhiều lần mua ma túy của H.

Tại bản cáo trạng số: 283/CT-VKSHL ngày 26/11/2 018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố Bùi Trịnh Q về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; Phạm Văn H về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo và đề nghị:

Áp dụng: Điểm q khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự ;

Xử phạt: Bùi Trịnh Q từ 7 đến 8 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt ngày 03/10/2018;

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự

Xử phạt: Phạm Văn H từ 7 đến 8 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt ngày 04/10/2018;

Về hình phạt bổ sung: do các bị cáo không có công việc ổn định, thu nhập ổn định nên không phạt tiền các bị cáo. 

Về vật chứng vụ án: tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động Nokia màu đen đã cũ kèm theo 01 sim điện thoại số thuê bao 0385.874.212; 01 điện thoại di động Nokia màu đen đã cũ kèm theo 01 sim điện thoại số thuê bao 0868851836 liên quan việc phạm tội

Tại phiên toà các bị cáo đều thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nội dung bản cáo trạng quy kết. Các bị cáo có lời khai thừa nhận đã phạm tội: Khoảng 20 giờ ngày 03/10/2018 tại tổ 6, khu 1, phường Y, thành phố H, Phạm Văn H có hành vi bán trái phép 0,095 gam Heroin cho Bùi Trịnh Q với giá 200.000 đồng. Sau đó, Bùi Trịnh Q đem số Heroin này chia thành 05 gói rồi cầm ra khu vực thuộc tổ 29, khu 3, phường C, thành phố H mục đích bán cho Phạm Mạnh Q1 với giá 500.000 đồng thì bị Công an phát hiện, bắt quả tang. Các bị cáo còn khai: thời gian trước khi bị bắt lần này H còn có lần bán Heroine cho Q để kiếm lời.

[2] Lời khai của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và lời khai của người làm chứng Phạm Mạnh Q1 tai cơ quan điều tra thể hiện: khoảng 20 giờ ngày 03/10/2018 Q1 có nhu cầu mua ma túy lên gọi điện cho Q để mua 05 gói ma túy, Q đồng ý và hẹn gặp tại nhà nghỉ Ngọc Mai. Khi Q1 đến nhà nghỉ Ngọc Mai thấy công an bắt giữ Q nên Q1 đi về nhà ( BL 155-157).Người làm chứng Lê Văn T có lời khai tai cơ quan điều tra: khoảng 20 giờ 45 phút ngày 03/10/2018 có chứng kiến công an bắt giữ Q, thu giữ của Q 05 gói giấy bên trong có chất bột màu trắng.Tôi nghe thấy Q khai là ma túy Hêroin mang đi bán cho khách( bl139 – 142)

[3]Tại bản kết luận giám định số 632/GĐMT ngày 05/10/2018 của Phòng kỹ thuận hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, kết luận: chất bột màu trắng trong 05 gói giấy (ký hiện từ M1- M5) trong phong bì niêm phong ghi: Vật chứng thu giữ của Bùi Trịnh Q ngày 03/10/2018 là ma túy, loại Heroin, tổng khối lượng là 0,095 gam.

[4]Với các chứng cứ nêu trên, kết hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ thấy có đủ cơ sở kết luận: Bùi Trịnh Q phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự ; Phạm Văn H phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[5]Tại bản cáo trạng số: 283/CT-VKSHL ngày 26/11/2 018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố Bùi Trinh Q về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự ; Phạm Văn H về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội , có căn cứ pháp luật.

[6]Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sự độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước. Các bị cáo là người trưởng thành, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của ma túy, cũng như sự ngăn cấm của pháp luật nhưng chỉ vì lợi ích cá nhân mong muốn kiếm lời nhanh chóng mà coi thường pháp luật,đã bất chấp các quy định nghiêm khắc của pháp luật để thực hiện hành vi bán ma túy cho các đối tượng nghiện. Hành vi của các bị cáo không những tiếp tay cho các đối tượng tội phạm về ma túy khác mà còn gây mất trật tự an ninh tại địa phương, gây bất bình trong nhân dân. Bản thân bị cáo Q có 02 tiền án chưa được xóa án tích nhưng không lấy làm bài học, tu dưỡng bản thân mà tiếp tục phạm tội,với hành vi phạm tội lần này là đã phạm tội với tình tiết định khung tái phạm nguy hiểm . Đối với bị cáo H trước đó đã nhiều lần bán ma túy Q với hành vi phạm tội lần này là đã phạm tội với tình tiết định khung phạm tội nhiều lần. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm khắc các bị cáo để cải tạo giáo dục các bị cáo thành người lương thiện và phòng ngừa chung trong xã hội.

[7]Xét về vai trò trong vụ án thấy: các bị cáo có vai trò độc lập với nhau trong việc phạm tội nên phải chịu hình phạt tương xứng hành vi của mình.

[8] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có

[9] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: các bị cáo sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo Bùi Trịnh Q được Bộ trưởng Bộ quốc phòng tặng bằng khen trong thời gian tại ngũ vì hoàn thành tốt nhiệm vụ góp phần vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng tổ quốc. Bị cáo Phạm Văn H có bố được Chủ tịch nước tặng Huân chương kháng chiến hạng Nhất nên các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s, khoản 1,2 điều 51 Bộ luật hình sự.

[10]Về hình phạt bổ sung: xét thấy các bị cáo không có việc làm, không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng phạt tiền đối với các bị cáo

[11] Về vật chứng vụ án: tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động Nokia màu đen đã cũ kèm 01sim số thuê bao 0385.874.212; 01 điện thoại di động Nokia màu đen đã cũ kèm theo 01 sim điện thoại số thuê bao 0868851836 liên quan việc phạm tội

[12] Về Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Công an thành phố H, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố H trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các Cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp theo quy định pháp luật.

[13] Về án phí : các bị cáo phải chịu án phí theo qui định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Bùi Trịnh Q, Phạm Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ: Điểm q khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1,2 Điều 51 Bộ luật hình sự ;

Xử phạt: Bùi Trịnh Q 07( bẩy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt ngày 03/10/2018;

Căn cứ: Điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1,2 Điều 51 Bộ luật hình sự

Xử phạt: Phạm Văn H 07( bẩy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt ngày 04/10/2018;

Căn cứ điểm a khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 điều 106 bộ luật tố tụng hình sự

-Tịch thu sung quĩ nhà nước:

+ 01 điện thoại di động Nokia màu đen đã cũ kèm 01sim số thuê bao 0385.874.212; 01 điện thoại di động Nokia màu đen đã cũ kèm theo 01 sim điện thoại số thuê bao 0868851836

Tất cả vật chứng nêu trên trong biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 46/BB- THA ngày 04/12/2018 của chi cục thi hành án thành phố H, tỉnh Quảng Ninh.

Áp dụng: Điều 135, khoản 2 điều 136; điều 331, điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, Luật án phí, lệ phí Toà án, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí tòa án. Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai, có mặt các bị cáo,báo cho các bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2019/HS-ST ngày 18/01/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:45/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về