Bản án 45/2019/HS-ST ngày 12/11/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH A, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 45/2019/HS-ST NGÀY 12/11/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ  

Trong ngày 12 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 40/2019/TLST-HS ngày 30 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

NGUYN VĂN S, sinh năm 1956, tại Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang. Nơi cư trú: Ấp TP, thị trấn CT, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang; nghề nghiệp: Chạy xe ôm; trình độ văn hoá: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Khuê, sinh năm 1927 (đã chết) và bà Võ Thị Bê, sinh năm 1927 (đã chết); anh chị em ruột: có 06 người lớn nhất sinh năm 1952, nhỏ nhất sinh năm 1964; bị cáo có vợ tên Phạm Thị Bảy, sinh năm 1956, có 01 người con sinh năm 1979; tiền án: Không, tiền sự: Không có; nhân thân bị cáo: tốt; bị cáo hiện đang tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

- Người người đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Trung H: Nguyễn Trung Tính, địa chỉ: Ấp TMA, xã TPT, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang – vắng mặt

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thị H, địa chỉ: Ấp TMA, xã TPT, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang – có mặt

Nguyễn Thanh S1, địa chỉ: 91A/3, KV 3, phường AB, quận NK, thành phố Cần Thơ – có mặt

- Ngưi làm chứng: Nguyễn Quốc L, địa chỉ: ấp TM, xã TPT, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang – vắng mặt

Tăng Hữu C, địa chỉ: ấp TM, xã TPT, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang – vắng mặt 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ 15 phút ngày 18/8/2019, bị cáo Nguyễn Văn S điều khiển xe mô tô biển số kiểm soát 95R1-8916 chở bà Tăng Tiết Siêu từ chợ Cái Tắc về nhà. Do nhà bà Siêu ở phía sau nhà ông C nên sau khi đưa bà Siêu đến sân nhà ông Tăng Hữu C, bị cáo S quay đầu xe để ra về nH khi vừa ra đến lộ nông thôn thì xảy ra va chạm với xe mô tô biển số kiểm soát 95H1-178.65 do Nguyễn Trung H điều khiển đi từ hướng ấp Thạnh Mỹ A về ấp Thạnh Phú, xã Tân Phú Thạnh, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang. Hậu quả, anh H bị bất tỉnh, sau đó được đưa đi cấp cứu tại bệnh viên đa khoa trung ương Cần Thơ, đến 23 giờ cùng ngày, gia đình anh H xin chuyển lên bệnh viện Chợ rẫy để điều trị, đến 0 giờ 15 phút ngày 20/8/2019 anh H chết.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 122/19/TT ngày 22/8/2019 của Trung tâm pháp y thuộc Sở Y tế tỉnh Hậu Giang đã giám định và kết luận: Nguyên nhân anh Nguyễn Trung H là do chấn thương sọ não.

Kết quả đo nồng độ cồn trong hơi thở của bị cáo S là 0.000mg/l; kết quả xét nghiệm nồng độ cồn trong hơi thở của anh H là 74,52mg/100ml.

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 18/8/2019 thể hiện: Đoạn đường xảy ra tai nạn là đoạn đường thẳng, mặt đường được trải bê tông bằng phẳng, có tổ chức giao thông 02 chiều, không có vạch kẻ đường ở giữa, tầm nhìn không hạn chế.

Quá trình điều tra xác định được nguyên nhân dẫn đến vụ tai nạn giao thông là do bị cáo S điều khiển xe mô tô tham gia giao thông từ trong ngõ nhà ông C ra đường chính không chú ý quan sát, không nhường đường cho phương tiện đi trên đường chính. Tuy nhiên, vụ tai nạn xảy ra một phần của do lỗi của bị hại Nguyễn Trung H là điều khiển xe mô tô tham gia giao thông khi trong máu có nồng độ cồn vượt mức quy định.

Vật chứng thu giữ trong vụ án gồm:

- 01 xe mô tô và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe BKS 95R1-8916 và 01 giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Nguyễn Văn S.

- 01 xe mô tô BKS 95H1-178.65.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 33/KL.ĐGTS và 34/KL.ĐGTS ngày 27/9/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Châu Thành A đã định giá và kết luận: Đối với xe mô tô 95H1-178.65 do Nguyễn Trung H điều khiển và xe mô tô 95R1-8916 do bị cáo S điều khiển, trong biên bản khám nghiệm phương tiện không ghi rõ tài sản bị hư hỏng bao nhiêu % và hồ sơ cung cấp chưa rõ về tài sản bị hư hỏng nên Hội đồng không có cơ sở để xác định giá trị tài sản bị hư hỏng.

Tại Cáo trạng số 50/CT-VKS-HCTA ngày 29 tháng 10 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A đã truy tố bị cáo S về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A vẫn giữ nguyên cáo trạng truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn S về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Sau khi phân tích các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; phân tích hành vi, tính chất, mức độ, nhân thân của bị cáo, Đại diện Viện kiểm sát nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ", đề nghị áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 260, điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S từ 01 năm đến 1 năm 6 tháng tù nH cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 năm đến 3 năm.

Về trách nhiệm dân sự, bị cáo đã thỏa thuận bồi thường thiệt hại cho gia đình Nguyễn Trung H số tiền 130.000.000đồng, ông Nguyễn Trung Tính là người đại diện hợp pháp của H đã nhận xong và không yêu C bồi thường thêm.

Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra chứng minh được xe mô tô BKS 95R1-8916 là xe bị cáo S mua để chạy xe ôm và nhờ con trai là Nguyễn Thanh S1 đứng tên trong giấy đăng ký xe nên ngày 03/10/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành A đã trả lại xe và giấy đăng ký xe cho bị cáo S.

Đi với xe mô tô BKS 95H1-178.65 là của bà Nguyễn Thị H mẹ của bị hại H, quá trình điều tra bà H không yêu C định giá lại, không yêu C bồi thường đối với hư hỏng của xe nên Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại xe cho bà H.

Đi với giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Nguyễn Văn S đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo S.

Tại phiên tòa, bị cáo ăn năn hối cải và xin được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để có điều kiện chăm sóc cho người vợ bệnh nặng vì hiện tại vợ bị cáo không tự chăm sóc bản thân, ngoài bị cáo không có ai sống chung cùng vợ bị cáo.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà H không yêu C bị cáo bối thường thiệt hại thêm mà chỉ yêu C Hội đồng xét xử xét xử bị cáo đúng quy định của pháp luật.

Anh Nguyễn Thanh S1 xác định xe mô tô bị cáo sử dụng do anh đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nH thực chất là xe của bị cáo Nguyễn Văn S nên không có yêu C gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Việc khởi tố, điều tra của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành A, việc truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố hình sự. Tại phiên tòa, đại diện gia đình người bị hại vắng mặt, tuy nhiên đã có lời khai và có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó, căn cứ Điều 292, Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với đại diện gia đình người bị hại.

[2] Về nội dung giải quyết vụ án:

[2.1] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Văn S đều thừa nhận hành vi bị cáo đã thực hiện. Đối chiếu lời thừa nhận của bị cáo với lời khai của những người làm chứng và các chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án là phù hợp, chứng minh được như sau: Vào khoảng 18 giờ 15 phút ngày 18/8/2019, bị cáo Nguyễn Văn S điều khiển xe mô tô BKS 95R1-8916 đi từ trong ngõ nhà ông Tăng Hữu C ra lộ nông thôn, do thiếu chú ý quan sát để nhường đường cho phương tiện đang tham gia giao thông trên đường chính nên dẫn đến va chạm với xe mô tô BKS 95H1- 17865 do anh Nguyễn Trung H điều khiển theo hướng từ ấp Thạnh Mỹ A về ấp Thạnh Phú, xã Tân Phú Thạnh, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang. Anh H điều khiển xe trong tình trạng trong máu có nồng độ cồn cao vượt mức quy định (74,52mg/100ml). Hậu quả vụ tai nạn đã làm anh H tử vong do chấn thương sọ não.

[2.2] Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo biết việc điều khiển xe ô tô thiếu chú ý quan sát khi từ đường nhánh ra đường chính là nguy hiểm nH vì chủ quan, thiếu quan sát, không nhường đường theo quy định của pháp luật nên đã gây tai nạn dẫn đến chết người. Hành vi của bị cáo đã vi phạm khoản 3 Điều 24 của Luật Giao thông đường bộ. Hành vi này đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.

[2.3] Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến tính mạng của người khác, gây mất trật tự an toàn giao thông trong tình hình tai nạn giao thông đang gây nhiều bức xúc cho xã hội. Vì vậy, cần có mức hình phạt nghiêm khắc để giáo dục bị cáo và răng đe phòng ngừa tội phạm chung.

[2.4] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại, bị cáo không có tiền án, tiền sự, có nhân thân tốt, đang trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc vợ là Phạm Thị Bảy là đối tượng khuyết tật nặng được hưởng trợ cấp của nhà nước, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Mặt khác, tai nạn xảy ra có một phần lỗi của bị hại do sử dụng rượu bia khi tham gia giao thông với nồng cồn trong máu vượt quá mức quy định. Vì vậy, Hội đồng xét xử khi lượng hình cũng xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần trách nhiệm hình sự thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

Bị cáo đã 63 tuổi, có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt tù mà giao bị cáo cho chính quyền địa phương quản lý, giáo dục cũng đủ răn đe, giáo dục đối với bị cáo.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và đại diện hợp pháp của người bị hại đã thỏa thuận bị cáo bồi thường cho gia đình bị hại 130.000.000đồng, bị cáo đã bồi thường đủ, gia đình bị hại không yêu C bồi thường thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[4] Về xử lý vật chứng trong vụ án: Ngày 01/02/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Châu Thành A đã ra quyết định xử lý vật chứng trả xe mô tô BKS 95R1-8916 và 01 giấy đăng ký xe mang tên Nguyễn Thanh S1 cho bị cáo S; trả lại cho bà H 01 xe mô tô BKS 95H1-178.65 là đúng quy định pháp luật.

Riêng phần xe bị hư hỏng, không định giá được thiệt hại, tuy nhiên tại phiên tòa người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị H không có yêu C bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Đi với giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Nguyễn Văn S, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 46 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự trả lại cho bị cáo S.

[5] Về án phí: Bị cáo S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A có căn cứ, phù hợp pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a, khoản 1 Điều 260, điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S 01 (một) năm tù nH cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (hai) năm tính từ ngày xét xử sơ thẩm ngày 12 tháng 11 năm 2019.

2. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân thị trấn Cái Tắc, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang quản lý và giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật thi hành án hình sự.

3. Trong thời gian thử thách, bị cáo Nguyễn Văn S cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể buộc bị cáo S phải chấp hành hình phạt tù của bản án này.

4. Về vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 46 của Bộ luật Hình sự.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn S 01 giấy phép lái xe hạng A1, mang tên Nguyễn Văn S.

5. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 591 Bộ luật dân sự 2015, ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Nguyễn Văn S bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 130.000.000đồng (Một trăm ba mươi triệu đồng). Phần này bị cáo đã thực hiện xong. Ông Nguyễn Trung Tính đã nhận xong và không yêu C bồi thường thêm.

6. Đối với phần thiệt hại cho xe BKS 95R1-8916 do Nguyễn Văn S1 đứng tên đăng ký và xe mô tô BKS 95H1-178.65 do bà Nguyễn Thị H đứng tên giấy đăng ký xe không ai yêu C bồi thường nên không đặt ra xem xét.

7. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH quy định về án phí lệ phí Tòa án bị cáo Nguyễn Văn S phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

8. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đại diện người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan tới mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

275
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2019/HS-ST ngày 12/11/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ 

Số hiệu:45/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành A - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về