Bản án 45/2019/HSST ngày 05/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 45/2019/HSST NGÀY 05/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 3 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 24/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Anh T, sinh ngày 04 tháng 8 năm 2000 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: A20/5 ấp 1A, xã B, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi sinh sống: A12/11 ấp 2, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị Kim P; bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Ngày 12/12/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”, thời gian thử thách 01 năm 06 tháng theo Bản án số 211/2017/HSST.

- Ngày 27/12/2016 bị Ủy ban nhân dân xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh ra quyết định áp dụng biện pháp cai nghiện ma túy bắt buộc tại cộng đồng trong thời gian 06 tháng.

Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 11/10/2018 đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa;

* Bị hại:

- Ông Trần Văn N, sinh năm 1979 – vắng mặt.

- Bà Nguyễn Thị Kim T, sinh năm 1980 – vắng mặt.

Nơi cư trú: A34/31K/1 ấp 1A, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

* Người làm chứng: Ông Huỳnh Thiên B, sinh năm 1984 – vắng mặt.

Nơi cư trú: 70/1 Bông Sao, Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Anh T có nhặt được một xâu chìa khóa trước phòng trọ số 8, địa chỉ A34/31K/7 tổ 58, ấp 1A, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh do vợ chồng ông Trần Văn N, bà Nguyễn Thị Kim T thuê ở. Vào khoảng 00 giờ 20 phút ngày 11/10/2018, T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản nên mang theo xâu chìa khóa trên và cây đoản lục giác hình chữ “L” đi bộ đến phòng trọ số 8 của vợ chồng ông N đang thuê ở. Khoảng 01 giờ 50 phút cùng ngày, khi đến trước phòng trọ số 8, T phát hiện cửa phòng khóa ngoài nên dùng chìa khóa đem theo mở ổ khóa đi vào bên trong phòng mở đèn lên thì T phát hiện 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J2 Prime và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 để trên bàn và số tiền 500.000 đồng để trên đầu tủ lạnh nên T lấy số tài sản trên bỏ vào túi quần đang mặc. Sau đó, T tiếp tục dẫn xe mô tô biển số 64B1-892.97 có gắn sẵn chìa khóa trên ổ khóa dựng trong phòng trọ ra ngoài, lên xe khởi động máy để tẩu thoát thì bị ông Trần Văn N và ông Huỳnh Thiên B đi uống cà phê về phát hiện T đang ngồi trên xe mô tô của ông N nên chạy đến dùng tay nắm lấy phía sau xe kéo lại nhưng T vẫn điều khiển xe chạy về phía trước 1 đoạn khoảng 20 mét thì người và xe té ngã xuống đường. T bị ông N và ông Bảo bắt giữ giao Công an xã Bình Hưng lập biên bản bắt người phạm tội quả tang sau đó chuyển hồ sơ đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh thụ lý theo thẩm quyền. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh, Nguyễn Anh T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên.

Tại Kết luận định giá về tài sản số 1967/HĐĐG-TTHS-TCKH ngày 19 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bình Chánh xác định:

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J2 Prime giá 1.100.000 đồng.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 giá 1.400.000 đồng.

- Xe mô tô hiệu Honda, loại Wave biển số 64B1-892.97 giá 14.000.000 đồng.

Vật chứng thu giữ: 01 ổ khóa, 01 thanh lục giác bằng kim loại hình chử “L”; 05 chìa khóa bằng kim loại; 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J2 Prime; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6; 01 xe mô tô biển số 64B1- 892.97, qua xác minh do bà Nguyễn Thị Kim T vợ ông N đứng tên chủ sở hữu; 01 chìa khóa xe mô tô biển số 64B1-892.97; số tiền 500.000 đồng.

Về dân sự: Ông Trần Văn N và bà Nguyễn Thị Kim T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Tại bản cáo trạng số 45/CT-VKS ngày 22 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Anh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp với hình phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo của Bản án số 211/2017/HSST ngày 12/12/2017 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh; ghi nhận bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại và tịch thu tiêu hủy 01 thanh lục giác bằng kim loại hình chữ “L”, 05 chìa khóa bằng kim loại.

Bị cáo Nguyễn Anh T khai nhận hành vi như trên và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét thấy lời khai tại phiên tòa của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, vật chứng của vụ án và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy đủ cơ sở xác định bị cáo Nguyễn Anh T thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J2 Prime, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6, 01 xe mô tô hiệu Honda, loại Wave biển số 64B1-892.97 và số tiền 500.000 đồng của vợ chồng ông Trần Văn N và bà Nguyễn Thị Kim T vào ngày 11/10/2018 tại Phòng trọ số 8 địa chỉ số A34/31K/7 ấp 1A, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác. Khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản trên, bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình nhưng vì tham lam, vụ lợi, muốn chiếm đoạt tài sản của người khác để tiêu xài nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Tài sản bị cáo chiếm đoạt của bị hại có giá trị tổng cộng là 17.000.000 đồng.

[3] Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Nguyễn Anh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Xét về nhân thân, bị cáo có nhân thân xấu: Ngày 12/12/2017 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”, thời gian thử thách 01 năm 06 tháng theo Bản án số 211/2017/HSST. Chưa hết thời gian thử thách án treo của bản án trên bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Do Bản án số 211/2017/HSST ngày 12/12/2017 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh kết tội bị cáo khi chưa đủ 18 tuổi nên căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 107 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 bị cáo được coi là không có án tích. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm được quy định điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo. Bên cạnh đó, bản thân bị cáo cũng nghiện ma túy, ngày 27/12/2016 bị Ủy ban nhân dân xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh ra quyết định áp dụng biện pháp cai nghiện ma túy bắt buộc tại cộng đồng trong thời gian 06 tháng. Từ đó thể hiện thái độ xem thường pháp luật, không biết ăn năn hối cải của bị cáo nên cần áp dụng hình phạt nghiêm, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù trong một khoản thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội; đồng thời buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo của Bản án số 211/2017/HSST ngày 12/12/2017 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh và tổng hợp với hình phạt của bản án này theo quy định tại Khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 do bị cáo phạm tội mới trong thời gian thử thách.

[5] Tuy nhiên, xét thấy tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã được thu hồi giao trả lại cho bị hại nên chưa gây thiệt hại về tài sản cho bị hại; đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án là: 01 ổ khóa, 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J2 Prime, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6, 01 xe mô tô biển số 64B1-892.97, 01 chìa khóa xe mô tô biển số 64B1-892.97, số tiền 500.000 đồng; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã trả cho bị hại nên Hội đồng xét xử không xét.

Đối với: 01 thanh lục giác bằng kim loại hình chữ “L”, 05 chìa khóa bằng kim loại, xét thấy không có giá trị sử dụng nên tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại được tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[9] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt đối với bị cáo cũng như giải quyết phần dân sự và xử lý vật chứng.

[10] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng và đầy đủ các hành vi, quyết định tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Anh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 56, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo của Bản án số 211/2017/HSST ngày 12/12/2017 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/10/2018.

Ghi nhận bị hại không có yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại.

Tịch thu và tiêu hủy: 01 (một) thanh lục giác bằng kim loại hình chữ “L” và 05 (năm) chìa khóa bằng kim loại.

(các vật chứng trên Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh đang tạm giữ theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 01/3/2019 giữa Công an huyện Bình Chánh và Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh)

Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

277
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2019/HSST ngày 05/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:45/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về