Bản án 45/2019/HNGĐ-ST ngày 30/05/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH Đ

BẢN ÁN 45/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/05/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 30 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 2779/2018/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 12 năm 2018, về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 18/4/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 118/2019/QĐST-HNGĐ ngày 06/5/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố B.

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1974.

- Bị đơn: Ông Lý Văn H, sinh năm 1977.

Cùng địa chỉ: H9/1B, tổ 34, khu phố 7, phường T, thành phố B, tỉnh Đ.

(Bà H có đơn xin xét xử vắng mặt, ông H vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai ngày 31/12/2018, nguyên đơn bà Nguyễn Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị H và ông Lý Văn H tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Văn Yên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 03/1998 vào ngày 10/4/1998. Quá trình chung sống từ khi kết hôn thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là tính tình không hợp, bất đồng quan điểm dẫn đến hai vợ chồng cãi vã. Thực tế giữa bà và ông H đã hòa giải hàn gắn nhiều lần nhưng vẫn không có kết quả. Đến nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà làm đơn xin được ly hôn với ông H.

Về con chung: Trong quá trình chung sống bà H và ông H có 02 con chung là cháu Lý Văn H, sinh ngày 04/8/2000 và cháu Lý Quỳnh M, sinh ngày 26/01/2007. Cháu H đã trưởng thành nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết, còn đối với cháu M, hiện đang sống cùng bà và do bà trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Do đó, sau khi ly hôn, bà yêu cầu được nuôi cháu M, tạm thời không yêu cầu ông H phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Bà Hiên khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn - ông Lý Văn H: đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, nhưng không đến làm việc và vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, không nộp bản tự khai, không có văn bản giải trình và tham gia phiên tòa. Vì vậy, không có lời trình bày.

- Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B:

- Về việc kiểm sát chấp hành pháp luật tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án đảm bảo theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tòa án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục theo quy định pháp luật.

- Về quan hệ hôn nhân: Hồ sơ vụ án thể hiện bà H và ông H có đăng ký kết hôn vào năm 1998. Hôn nhân tự nguyện, hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Theo bà H trình bày quá trình chung sống cả hai vợ chồng không hạnh phúc, nguyên nhân xuất phát từ việc vợ chồng bất đồng quan điểm, tính tình không hợp. Do không còn tình cảm, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà H làm đơn xin được ly hôn với ông H. Như vậy, vợ chồng không hàn gắn đoàn tụ được chứng tỏ hôn nhân giữa vợ chồng đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của bà H là có căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

- Về con chung: Xét thấy nguyện vọng của cháu Lý Quỳnh M, sinh ngày 26/01/2007 muốn ở với bà H. Vì vậy, giao con chung cho bà H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, tạm thời ông Hiếu không phải cấp dưỡng nuôi con là phù hợp. Đối với cháu Lý Văn H, sinh ngày 04/8/2000 đã trưởng thành và có khả năng lao động không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

Về tài sản chung, nợ chung: Do không có lời khai của ông Lý Văn H nên tách ra giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

Căn cứ vào Điều 89, 91; 92 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 và 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận cho bà H được ly hôn với ông H .

Về con chung: Giao cháu Lý Quỳnh M, sinh ngày 26/01/2007 cho bà H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời ông Hiếu không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Riêng với cháu Lý Văn H, sinh ngày 04/8/2000 đã trưởng thành và có khả năng lao động không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

Ông H không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cả trở. Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết các đương sự có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như mức cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Do không có lời khai của ông Lý Văn H nên tách ra giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị H phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

- Bà Nguyễn Thị H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với Ông Lý Văn H; Căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xác định quan hệ pháp luật của vụ án là “Tranh chấp ly hôn”. Căn cứ vào Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự xác định bà Nguyễn Thị H là nguyên đơn, còn ông Lý Văn H là bị đơn trong vụ án.

- Theo biên bản làm việc ngày 16/4/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố B tại Công an phường T, thì hiện nay ông Lý Văn H hiện đang cư trú tại: số nhà H9/1B, tổ 34, khu phố 7, phường Tân Phong, thành phố B, tỉnh Đ. Do đó, căn cứ các Điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ.

- Tòa án đã nhiều lần tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Lý Văn H, nhưng ông H vẫn vắng mặt không có lý do tại các buổi làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp chứng cứ, tiếp cận, công khai chứng cứ; hòa giải và tham gia phiên tòa. Ngoài ra, vào ngày 29/05/2019, bà Nguyễn Thị H có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ vào khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án đưa ra xét xử vắng mặt bà H và ông H .

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị H và ông Lý Văn H tìm hiểu và đăng ký kết hôn trên cơ sở tự nguyên. Hôn nhân giữa bà H và ông H có đăng ký kết hôn tại UBND xã Văn Yên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên và được cấp

Giấy chứng nhận kết hôn số 03/1998 vào ngày 10/4/1998 nên được xác định là hôn nhân hợp pháp theo quy định của pháp luật.

Xét thấy, mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa bà H và ông H là có thật. Bởi lẽ, theo quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, quý trọng chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau để cùng xây dựng gia đình hạnh phúc. Tuy nhiên, theo bà H trình bày trong quá trình chung sống, mâu thuẫn của bà H và ông H xảy ra sau ngay sau khi kết hôn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nên dẫn đến việc vợ chồng xung đột và cãi vã. Thực tế theo Biên bản xác minh của Tòa án nhân dân thành phố B ngày 23/01/2019, tại địa phương nơi bà H, ông H cư trú về tình trạng mâu thuẫn vợ chồng thì đại diện địa phương cho biết giữa hai vợ chồng bà Hvà ông H thực chất có mâu thuẫn, cuộc sống vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã từ năm 2016 cho tới nay. Quá trình làm việc Tòa án đã triệu tập hợp lệ đối với ông Hiếu nhưng ông H vẫn không đến Tòa án làm việc thể hiện việc ông H không quan tâm và tha thiết tới cuộc hôn nhân giữa ông H và bà H. Do đó, từ những nhận định trên Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng bà H và ông H đã đến mức trầm trọng, tình cảm với nhau không còn, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích của hôn nhân không đạt được nên yêu cầu xin ly hôn của bà H là có cơ sở. Vì vậy, Tòa án căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận cho bà Nguyễn Thị H được ly hôn với ông Lý Văn H .

[3] Về con chung và cấp dưỡng: Trong quá trình chung sống bà Hiên và ông H có 02 con chung là cháu Lý Văn H, sinh ngày 04/8/2000 và cháu Lý Quỳnh M, sinh ngày 26/01/2007. Sau khi ly hôn bà H có nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu M. Xét nguyện vọng của bà Hiên là chính đáng vì cháu M hiện đang sống cùng với bà H, do bà H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Hơn nữa, Tòa án đã lấy ý kiến thì nguyện vọng của cháu M là muốn được ở với bà H. Mặt khác, ông H hiện đang cư trú cùng nhà với bà H nhưng không lên Tòa để làm việc thể hiện ông H không quan tâm đến hôn nhân và chăm sóc con cái. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết giao M cho bà H được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng để tạo điều kiện tốt nhất cho các cháu về mặt ổn định tinh thần cũng như học tập và phát triển tâm, sinh, lý sau này. Đối với cháu Lý Văn H, sinh ngày 04/8/2000 đã trưởng thành và có khả năng lao động nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Về cấp dưỡng nuôi con chung bà H không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[4]. Về tài sản chung và nợ chung: Khi ly hôn, bà H xác định về tài sản chung tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết; nợ chung không có và cũng không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, do ông H vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến của ông H, nên sẽ tách ra giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

[5] Về án phí: Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà H phải nộp 300.000đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 228, Điều 266, Điều 271 Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 89, 91; 92 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000; Điều 9, Điều 19; Điều 53, Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84; khoản 1 Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H. Bà Nguyễn Thị H được ly hôn với ông Lý Văn H .

Về con chung: Giao cháu Lý Quỳnh M, sinh ngày 26/01/2007 cho bà H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời ông Hiếu không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Riêng cháu Lý Văn H, sinh ngày 04/8/2000 đã trưởng thành và có khả năng lao động nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Bà H và ông H vẫn phải có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung. Ông H có quyền thăm nom con; không ai được cản trở thực hiện quyền này. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Khi ly hôn, bà H xác định về tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết; nợ chung không có và cũng không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, do ông H vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến của ông H, nên sẽ tách ra giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị H phải nộp 300.000đ án phí, được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 009972 ngày 14/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa. Bà Hiên đã nộp đủ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Bà Nguyễn Thị H và ông Lý Văn H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2019/HNGĐ-ST ngày 30/05/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:45/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về