Bản án 45/2019/HNGĐ-ST ngày 27/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 45/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/09/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 27 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 110/2019/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 3 năm 2019 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 04/9/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Võ Thị Kim T - sinh năm 1993.

Địa chỉ: Khu phố 7, phường T, thành phố P - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận (có mặt).

- Bị đơn: Ông Trần Ngọc V - sinh năm 1990.

Địa chỉ: Khu phố 2, phường T, thành phố P - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận (có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 20/2/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn bà Võ Thị Kim T trình bày:

Bà Võ Thị Kim T và ông Trần Ngọc V tiến đến hôn nhân tự nguyện, có tổ chức cưới hỏi và có đăng ký kết hôn, được Ủy ban nhân dân phường T, TP. P, tỉnh Ninh Thuận cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 70/2013 ngày 05/9/2013. Vợ chồng bà sống hạnh phúc đến 2016 thì xảy ra mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, ông V không có trách nhiệm với gia đình, không lo làm ăn kinh tế. Mặt khác, ông V thường xuyên sử dụng ma túy, bà đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng ông V vẫn không thay đổi nên vợ chồng sống không hạnh phúc. Bà và ông V đã ly thân từ năm 2017 đến nay, mạnh ai nấy sống, không còn quan tâm đến nhau và không ai đặt vấn đề đoàn tụ. Trước đây bà đã từng hai lần nộp đơn ly hôn tại Tòa án nhưng đã rút đơn khởi kiện để cho ông V có cơ hội thay đổi nhưng ông V không thay đổi. Nay, tình cảm vợ chồng không còn nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông V.

Về con chung: Vợ chồng bà có 01 con chung tên Trần Võ Trâm A, sinh ngày 24/11/2013. Ly hôn bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu Trần Võ Trâm A, bà không yêu cầu ông Trần Ngọc V cấp dưỡng nuôi con chung.

Tài sản chung và nợ chung: Bà Trâm không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 15/3/2019 và trong quá trình tham gia tố tụng ông Trần Ngọc V trình bày: Ông thống nhất với lời trình bày của bà T về thời điểm chung sống, đăng ký kết hôn, con chung cũng như nguyên nhân mâu thuẫn và tình trạng hôn nhân giữa ông và bà T. Đối với yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của bà T thì ông không đồng ý ly hôn vì ông còn thương vợ con.

Về con chung: Vợ chồng ông có 01 con chung tên Trần Võ Trâm A, sinh ngày 24/11/2013. Nếu Tòa án giải quyết cho ly hôn ông đồng ý giao con cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng và ông không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung do bà T không yêu cầu.

Tài sản chung và nợ chung: Ông V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời trình bày và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Nguyên đơn bà Võ Thị Kim T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, nuôi con chung với bị đơn ông Trần Ngọc V, vì vậy Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật là “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn ở khu phố 2, phường T, TP. P nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân TP. Phan Rang - Tháp Chàm theo khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát: Quá trình thụ lý giải quyết vụ án, bản khai và các chứng cứ do các đương sự cung cấp, việc thu thập chứng cứ không do Tòa án tiến hành nên căn cứ khoản 2 Điều 21 của Bộ luật Tố tụng dân sự không có Viện kiểm sát tham gia phiên tòa.

[3] Về sự vắng mặt của bị đơn tại phiên tòa. Ngày 17/9/2019 bị đơn là ông Trần Ngọc V có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ điểm khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn.

[4] Bà Võ Thị Kim T và ông Trần Ngọc V kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới hỏi và có đăng ký kết hôn, được Ủy ban nhân dân phường Thanh Sơn, TP. Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 70/2013 ngày 05/9/2013, đây là hôn nhân hợp pháp, tại phiên tòa sơ thẩm bà T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

[5] Về quan hệ hôn nhân, xét thấy: Theo quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”. Tuy nhiên, Từ năm 2016 vợ chồng bà T ông V xảy ra nhiều mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, ông V không có trách nhiệm với gia đình, không chăm lo làm ăn kinh tế để xây dựng hạnh phúc gia đình. Mặt khác, ông V thường xuyên sử dụng chất kích thích, bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường thị trấn và hiện đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng theo quyết định của Tòa án. Bà T và ông V đã ly thân từ năm 2017 đến nay, mạnh ai nấy sống, không còn quan tâm đến nhau và không ai đặt vấn đề đoàn tụ. Mâu thuẫn của bà T và ông V được chính ông V thừa nhận và phù hợp với biên bản xác nhận tình trạng hôn nhân của địa phương do nguyên đơn cung cấp. Vì vậy, Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xét thấy hôn nhân giữa bà T và ông V rơi vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T.

[6] Về con chung: Xét về yêu cầu được trực tiếp nuôi con của bà T, Hội đồng xét xử xét thấy theo bản tự khai ngày 15/3/2019 của ông V và các biên bản hòa giải ngày 15/3/2019, ngày 08/5/2019 ông V đồng ý cho bà T được trực tiếp nuôi con chung là cháu Trần Võ Trâm A trong trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn nên Hội đồng xét xử giao cháu Trần Võ Trâm A, sinh ngày 24/11/2013 là con chung của bà T và ông V cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng, ông V không có nghĩa vụ phải cấp dưỡng nuôi con do bà T không có yêu cầu.

[7] Tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[8] Về án phí: Bà T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, Điều 271, Điều 273 và Điều 483 của Bộ Luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà Võ Thị Kim T được ly hôn với ông Trần Ngọc V.

2. Về con chung: Bà Võ Thị Kim T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Trần Võ Trâm A, sinh ngày 24/11/2013. Ông Trần Ngọc V không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con do bà Võ Thị Kim T không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm non con của người đó.

3. Về án phí: Bà Võ Thị Kim T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) bà Võ Thị Kim T đã nộp theo biên lai thu tiền số: 0018266 ngày 27/02/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang- Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Bà Võ Thị Kim T đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị đơn vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2019/HNGĐ-ST ngày 27/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:45/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về