Bản án 45/2019/HNGĐ-ST ngày 15/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 45/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện A, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 225/2019/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 8 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1338/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 10 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 1380/2019/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị N,trú quán: Thôn C, xã Q, huyện A, thành phố H, vắng mặt tại phiên tòa (có đơn đề nghị tòa án xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Âu Thanh S, trú quán: Thôn C, xã Q, huyện A, thành phố H, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 12 tháng 7 năm 2019, bản tự khai và biên bản lấy lời khai của nguyên đơn chị Phạm Thị N trình bày:

Chị Phạm Thị N và anh Âu Thanh S kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện A, thành phố H vào ngày 08 tháng 5 năm 2014. Quá trình chung sống thời gian đầu tình cảm vợ chồng hòa thuận nhưng sau đó thì vợ chồng có xảy ra nhiều mâu thuẫn nguyên nhân do anh S chơi bời, nghiện ma tuý, không chịu làm ăn, lo toan cho gia đình vợ, con hay gây sự và đánh chị N. Chị N và gia đình đã động viên cho anh S đi cai nghiện nhiều lần nhưng không có kết quả. Nay chị N xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể chung sống với nhau được nên chị N đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn anh S. Về con chung: Chị N và anh S có 01 con chung là Âu Gia B, sinh ngày 04 tháng 9 năm 2014. Chị N đề nghị được nuôi con và không yêu cầu anh S phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chungChị N trình bày: Chị và và anh S không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Âu Thanh S đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và giấy triệu tập nhiều lần đến tòa án tham gia giải quyết vụ án nhưng anh Âu Thanh S đều vắng mặt không có lý do nên không có lời khai của anh Âu Thanh S.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A, thành phố H tại phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và quan điểm giải quyết vụ án như sau:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã đảm B đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn chị N đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Bị đơn anh S không đến tham gia tố tụng tại phiên tòa là không tuân thủ các điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về đường lối giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 19, Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.Xử cho chị N được ly hôn anh S; về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao con Âu Gia B, sinh ngày 04 tháng 9 năm 20114 cho chị N nuôi dưỡng cho đến khi con trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Anh S không phải cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung: Chị N không yêu cầu giải quyết nên đề nghị không xem xét giải quyết; về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,chị N phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiêntoà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A, thành phố H theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn chị N có đơn đề nghị tòa án xét xử vắng mặt; bị đơn là anh S vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, không có đơn đề nghị tòa án xét xử vắng mặt mặc dù Tòa án đã tống đạt hợp lệ. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn chị N và bị đơn anh S.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị N và anh Âu Thanh S kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện A, thành phố H vào ngày 08 tháng 5 năm 2014 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng có mâu thuẫn nguyên nhân do anh S chơi bời, nghiện ma tuý, không chịu làm ăn, lo toan cho gia đình, hay gây sự đánh chị N. Chị N và gia đình đã động viên cho anh S đi cai nghiện nhiều lần nhưng không có kết quả. Chị N đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, vợ chồng không quan tâm đến nhau.Xét thấy mâu thuẫn giữa chị N và anh S đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, yêu cầu ly hôn của chị N là có căn cứ và hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình nên chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị N và anh S có 01 con chung là Âu Gia B, sinh ngày 04 tháng 9 năm 2014. Chị N đề nghị được nuôi con Âu Gia B và chị N không yêu cầu anh S phải cấp dưỡng nuôi con. Căn cứ vào các tài liệu xác minh thấy chị N có việc làm, có thu nhập và có nơi ở ổn định đảm B nuôi con. Xét đề nghị của chị N là hoàn toàn phù hợp Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình nên cần chấp nhận.

[4] Về tài sản chung: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị N phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 19, Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chị Phạm Thị N được ly hôn anh Âu Thanh S.

2. Về con chung: Giao con Âu Gia B, sinh ngày 04 tháng 9 năm 2014 cho chị Phạm Thị N nuôi dưỡng cho đến khi con trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Tạm hoãn việc anh Âu Thanh S cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị N phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Phạm Thị N đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0017315 ngày 02 tháng 8 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A, thành phố H. Chị Phạm Thị N đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo bản án: Chị Phạm Thị N và anh Âu Thanh S có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2019/HNGĐ-ST ngày 15/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:45/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về