Bản án 45/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 45/2018/HS-ST NGÀY 28/11/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 11 năm 2018, tại Trụ sở Toà án nhân dân Tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 41/2018/TLST-HS ngày 29/10/2018 đối với:

1. Bị cáo: Lương Văn P; sinh ngày 01/01/1969 tại xã C, huyện Q, tỉnh N; Nơi đăng ký HKTT: B, xã C, huyện Q, tỉnh N; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 3/10; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Quang V và bà Lư Thị Đ (đã mất); vợ Lô Thị H và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Trại giam công an tỉnh Hà Tĩnh từ ngày 15/7/2018 đến nay; có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Trần Đức Đ; Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư H, đoàn Luật sư tỉnh Hà Tĩnh; có mặt.

2.Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Lô Thị H; sinh năm 1968; trú tại: B, xã C, huyện Q, tỉnh N. có mặt.

3. Người làm chứng:

- Anh Nguyễn Đức L, sinh năm 1978; địa chỉ: Khối 1 Thị trấn X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh. có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có mối quan hệ quen biết từ trước với người đàn ông Lào tên là V, ngày 11/7/2018 V gọi điện thoại cho Lương Văn P nói “Có người muốn mua ma túy của V, P có đi bán ma túy cho Páo được không?”, Lương Văn P trả lời “Để xem thế nào đã”. Sáng ngày 14/7/2018, V tiếp tục gọi điện cho Lương Văn P nói “Ma túy tối nay sẽ về đến thành phố Vinh, P có đi bán được không, P bảo “Để suy nghĩ đã”. Khoảng 20 giờ cùng ngày khi P đang chăm sóc ông Lô Văn B (bố vợ của P) điều trị ở bệnh viện Quân Y 4, thành phố Vinh, tỉnh N, V gọi điện thoại nói có một người đàn ông tên H, người Hà Tĩnh cần mua ma túy nên V muốn P nhận ma túy từ V để đưa đến khu vực cầu Bến Thủy 2 giao cho H rồi lấy tiền mang về, V sẽ chia đôi số tiền lời bán ma túy cho P, P đồng ý. Đến khoảng 22 giờ ngày 14/7/2018, V đến trưởng cổng Bệnh viện Quân Y 4, đưa cho Lương Văn P 01 túi ni lông màu đen, bên trong đựng 01 túi ni lông màu xanh được dán kín và bảo trong túi ni lông màu xanh là 01 kg ma túy đá. Sau đó V cho P số điện thoại của H, bảo P cầm túi ma túy đến khu vực cầu Bến Thủy 2 giao cho H rồi lấy 150.000.000 đồng từ H đưa về cho V. Sau khi nhận ma túy từ V, Lương Văn P đến khu vực cầu Bến Thủy 2 và gọi H ra đón. Một lúc sau, H đi xe taxi đến và hỏi “Hàng đâu”, P trả lời “Hàng đây”, sau đó H bảo P lên xe Taxi, cả hai đi vào phòng 102 khách sạn K tại thị trấn X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh. Khi vào phòng, P thấy có một người đàn ông ở trong phòng, H giới thiệu người này là bạn của H. Đến 02 giờ 30 phút ngày 15/7/2018, khi Lương Văn P đang giao ma túy cho H thì bị cơ quan chức năng kiểm tra, phát hiện.

Tại Bản kết luận giám định số 66/GĐMT-PC54 ngày 16/7/2018 của phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh kết luận: Chất tinh thể rắn màu trắng thu giữ của Lương Văn P có khối lượng 980 gam là Methaphetamine.

Vật chứng thu giữ gồm: 980 gam Methamphetamin; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel màu đen, lắp hai sim; 01 giấy phép lái xe mang tên Lương Văn P; 4.000.000 đồng tiền Việt Nam; 01 túi nilon màu đen; 01 túi nilon màu xanh.

Với hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số 45/CTr-VKS-P1, ngày 24 tháng 10 năm 2018 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã truy tố Lương Văn P về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, không oan sai.

Tại phiên toà, bị cáo Lương Văn P thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố và mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt Lương Văn P mức án tù Chung thân thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo tạm giữ, tạm giam 15/7/2018. Phạt bổ sung 20 triệu đồng, đề nghị xử lý về vật chứng, tuyên về án phí và quyền kháng cáo.

Sau khi phân tích vị luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị: Hội đồng xét xử xem xét đến nguyên nhân điều kiện phạm tội, hoàn cảnh gia đình của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ có tại hồ sơ vụ án; căn cứ vào kết quả hỏi và tranh luận công khai tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét một cách khách quan, toàn diện các tài liệu chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên; lời khai của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Tĩnh, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, điều tra viên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện và tuân thủ đúng thẩm quyền được quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến, hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của những cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[2]. Về nội dung: Căn cứ vào lời khai của bị cáo, người liên quan, người làm chứng trong quá trình điều tra, vật chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, các chứng cứ có tại hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa có đủ cơ sở để khẳng định: Vào khoảng 02 giờ 30 phút ngày 15/7/2018, tại phòng 102 khách sạn K thuộc tổ dân phố 1 thị trấn X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Tĩnh phối hợp với lực lượng chức năng đã phát hiện bắt quả tang Lương Văn P đang có hành vi mua bán trái phép 980 gam Methamphetamine. Lương Văn P khai nhận số ma túy trên do một người đàn ông người Lào tên V nhờ P bán cho một người đàn ông tên H với giá 150.000.000 đồng, số tiền lời sẽ chia đôi. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh truy tố bị cáo Lương Văn P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 4 điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội. Tại phiên tòa lời luận tội của Viện kiểm sát đã đánh giá đầy đủ tính chất, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy lời đề nghị của Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với bị cáo cũng như các vấn đề khác là phù hợp.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an trên địa bàn, xâm phạm đến chính sách của Nhà nước về quản lý chất ma túy. Bởi ma tuý là một loại độc dược, làm huỷ hoại sức khoẻ,nhân cách con người và là nguyên nhân phát sinh cho các loại tội phạm, tệ nạn xã hội khác nên pháp luật đã nghiêm cấm tàng trữ, vận chuyển, mua bán và xử lý nghiêm khắc đối với các đối tượng phạm tội này vậy mà bị cáo vẫn bất chấp pháp luật, mua bán ma túy. Vì vậy cần xử phạt thật nghiêm nhằm răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo, ngăn chặn và phòng ngừa chung.

[4]. Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng bị cáo Lương Văn P chưa có tiền án, tiền sự, không có tình tình tăng nặng và được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thành khẩn khai báo, có bốlà người có công với cách mạng được tặng thưởng Huân chương kháng chiến, hoàn cảnh gia đình khó khăn là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5] Xét tính chất, mức độ, hậu quả của vụ án đã ảnh hưởng xấu tới xã hội, vì vậy để đảm bảo phòng ngừa tội phạm cần phải xử lý đủ nghiêm đối với hành vi phạm tội của bị cáo, phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội để bị cáo có đủ điều kiện để tự rèn luyện chính mình, sống trở thành con người có ích cho xã hội. Bị cáo hiện đang bị tạm giam, để đảm bảo cho công tác thi hành án cần tiếp tục tạm giam bị cáo mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

Tội phạm ma túy là một loại tội phạm hết sức nguy hiểm. Vì vậy, ngoài hình phạt chính cần áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự phạt bổ sung bị cáo Lương Văn P số tiền 20 triệu đồng như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

[6] Liên quan trong vụ án còn có: Theo lời khai của bị cáo thì trong vụ án này còn có đối tượng tên V, H và một người bạn của H nhưng quá trình điều tra các thông tin về họ tên, địa chỉ của những đối tượng này do bị cáo cung cấp không rõ rằng, không đầy đủ nên Cơ quan điều tra không đủ điều kiện để xác minh làm rõ được.

[7] Về vật chứng vụ án: Cần áp dụng khoản 1 Điều 47 BLHS, khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu huỷ: 980 gam Methamphetamin; 01 túi nilon màu đen; 01 túi nilon màu xanh; tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel màu đen, lắp hai sim; trả lại cho bị cáo 01 giấy phép lái xe mang tên Lương Văn P; tạm giữ 4.000.000 đồng của bị cáo Lương Văn P để đảm bảo công tác thi hành án.

Tình trạng vật chứng có trong biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra và Cục thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh.

[8] Về án phí: Bị cáo Lương Văn P phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lương Văn P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251, điểm s, x khoản 1 Điều 51Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt: Lương Văn P mức án tù Chung thân. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 15/7/2018).

2. Hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự xử phạt tiền bị cáo Lương Văn P số tiền 20.000.000 đồng

3. Về vật chứng vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel màu đen, lắp hai sim; tịch thu tiêu huỷ 980 gam Methamphetamin; 01 túi nilon màu đen; 01 túi nilon màu xanh; trả lại cho bị cáo 01 giấy phép lái xe mang tên Lương Văn P; tạm giữ 4.000.000 đồng của bị cáo Lương Văn P để đảm bảo công tác thi hành án. Tình trạng vật chứng có trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/10/2018 giữa Cơ quan điều tra và Cục thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 kèm theo Danh mục án phí, lệ phí tòa án buộc bị cáo Lương Văn P phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo bản án: Bị cáo, người liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:45/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về