Bản án 45/2018/HNGĐ-ST ngày 12/09/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 45/2018/HNGĐ-ST NGÀY 12/9/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 12 tháng 9 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 126/2018/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 3 năm 2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2018/QĐST–HNGĐ ngày 15 tháng 8 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 60/2018/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Tuyết M, sinh năm 1974. Nơi cư trú: Số 151 T, phường T, quận L, thành phố Hải Phòng: Có mặt;

- Bị đơn: Anh Vũ Mạnh H, sinh năm 1973. Nơi cư trú: Số 151 T, phường T, quận L, thành phố Hải Phòng: Vắng mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện; bản tự khai và trong quá trình xét xử nguyên đơn (chị Nguyễn Tuyết M) trình bày:

Tôi và anh Vũ Mạnh H tự nguyện xây dựng gia đình với nhau, được gia đình hai bên đồng ý tổ chức hỏi, cưới và có đăng ký kết hôn ngày 25/01/2000 tại Ủy ban nhân dân thị trấn N, huyện T, thành phố Hải Phòng.

Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận đến năm 2003 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, anh H thường xuyên vắng nhà, đi đâu không nói cho vợ con biết nên vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Bản thân tôi cũng không nắm bắt được các mối quan hệ bạn bè cũng như công việc của anh H. Hai bên cũng đã tìm cách hàn gắn tình cảm vợ chồng, gia đình hai bên cũng hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Chúng tôi đã sống ly thân từ nhiều năm nay và không còn quan hệ gì với nhau. Đến nay tôi xác nhận: Tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn kéo dài làm ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống và công việc của tôi và các con; nên tôi đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn với anh Vũ Mạnh H.

- Về con chung: Tôi và anh H có 02 con chung; nay ly hôn tôi xin được tiếp tục nuôi cháu Vũ Minh Q, sinh ngày 13/02/2008 đến đủ 18 tuổi và đồng ý để anh H nuôi cháu Vũ Minh H, sinh ngày 11/11/2000 đến đủ 18 tuổi. Việc cấp dưỡng nuôi con chung, không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai, nên tôi không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

- Về tài sản chung: Tôi không yêu cầu Tòa án xét giải quyết.

* Bị đơn (anh Vũ Mạnh H) trình bày tại bản tự khai, biên bản ghi lời khai, tại phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải: Anh H hoàn toàn thống nhất với lời trình bày của chị M về thời gian, điều kiện kết hôn; về quan hệ trong hôn nhân, về con chung và tài sản chung. Tuy nhiên vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do hai bên ít nói chuyện với nhau; vợ chồng nói chuyện không hợp dẫn đến dễ bất đồng nhưng không cãi nhau. Anh cũng biết chị M không thích việc anh hay đi làm xa, hay ít trao đổi nói chuyện với chị M nhưng anh chưa khắc phục được. Anh thừa nhận chị M là người có trách nhiệm đến gia đình hai bên nội ngoại, với các con nhưng lại ít quan tâm đến anh. Anh thấy mâu thuẫn vợ chồng chưa đến mức phải ly hôn nhưng nếu chị M cương quyết ly hôn thì đề nghị Tòa án để đến khi con lớn của anh và chị M thi đại học xong (hết tháng 6) mới giải quyết vì không muốn ảnh hưởng đến tâm lý của cháu.

- Về con chung: Anh có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng cháu Vũ Minh H, sinh ngày 11/11/2000 đến đủ 18 tuổi và đề nghị Tòa án giao cháu Vũ Minh Q, sinh ngày 13/02/2008 cho chị M nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi. Việc cấp dưỡng nuôi con, anh và chị M tự thỏa thuận với nhau, nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

- Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Kiểm sát viên, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Kể từ khi thụ lý vụ kiện đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng pháp luật tố tụng dân sự về thụ lý, thu thập chứng cứ, lấy lời khai của các đương sự, việc giao các văn bản cho hai bên. Về phía nguyên đơn, đã chấp hành đầy đủ theo quy định tố tụng dân sự khi tham gia tố tụng; phía bị đơn đã không chấp hành đầy đủ theo quy định tố tụng dân sự khi tham gia tố tụng.

- Về hướng giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị M. Về con chung: Giao con chung Vũ Minh Q, sinh ngày 13/02/2008 cho chị M tiếp tục nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi và giao con chung Vũ Minh H, sinh ngày 11/11/2000 cho anh H tiếp tục nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi. Việc cấp dưỡng nuôi con, hai bên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết; nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xét giải quyết.

Về tài sản chung, công nợ: Hai bên cùng không yêu cầu Tòa án, nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xét giải quyết.

Về án phí: Chị M phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà và kết quả tranh luận tại phiên toà, Tòa án nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

 [1] Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng theo quy định tại Điều 28, 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

 [2] Về việc vắng mặt của bị đơn: Anh H vắng mặt tại phiên tòa nhưng đãđược triệu tập hợp lệ lần thứ  hai. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh H.

- Về nội dung:

 [3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Tuyết M và anh Vũ Mạnh H kết hôn do hai bên tự nguyện quyết định, được gia đình hai bên đồng ý tổ chức hỏi cưới và có đăng ký kết hôn ngày 25/01/2000 tại Uỷ ban nhân dân thị trấn N, huyện T, thành phố Hải Phòng.

Quá trình chung sống hai bên đều xác nhận vợ chồng đã xảy ra mâu thuẫn từ năm 2003. Từ sau khi sinh con chúng thứ hai đến nay hai bên đã sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Nay chị M xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn kéo dài ảnh hưởng đến cuộc sống, công việc của chị và các con nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn anh H. Anh H không đồng ý ly hôn vì lo ảnh hưởng đến việc học hành của các con. Trong trường hợp nếu chị M cương quyết xin ly hôn thì anh đề nghị chờ đến khi con lớn thi xong vào đại học thì anh sẽ đồng ý.

Qua đó cho thấy: Mâu thuẫn vợ chồng đã thực sự trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được; căn cứ vào Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị M được ly hôn anh Vũ Mạnh H.

 [4] Về con chung: Chị M và anh H có 02 con chung. Nay ly hôn chị M có nguyện vọng nuôi dưỡng con chung Vũ Minh Q, sinh ngày 13/02/2008 đến đủ 18 tuổi và đề nghị giao con chung Vũ Minh H, sinh ngày 11/11/2000 cho anh H tiếp tục nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi. Điều này phù hợp với ý kiến của anh H cũng như nguyện vọng của cháu H và cháu M. Việc cấp dưỡng nuôi con hai bên không yêu cầu xét giải quyết, nên không đặt ra xét giải quyết. Căn cứ Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu chị M và anh H.

Sau này hai bên có yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hay về cấp dưỡng nuôi con sẽ được giải quyết bằng vụ việc dân sự khác.

 [5] Về tài sản chung: Hai bên đều không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra xét giải quyết.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các điều 51, 56, 81, 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ các điều 28, 35, 39, 147, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy banThường vụ Quốc hội quy  định về án phí, lệ phí Tòa án; Xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Tuyết M được ly hôn anh Vũ Mạnh H.

- Về con chung: Giao con chung Vũ Minh Q, sinh ngày 13/02/2008 cho chị M nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi và giao con chung Vũ Minh H, sinh ngày 11/11/2000 cho anh H nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con hai bên không yêu cầu giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về án phí: Chị M phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước. Số tiền này chị M đã nộp đủ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân theo biên lai thu tiền số 0005128 ngày 20-3-2018.

Chị M có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2018/HNGĐ-ST ngày 12/09/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:45/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về