Bản án 45/2017/HSST ngày 28/07/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 45/2017/HSST NGÀY 28/07/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 28 tháng 7 năm 2017, tại Trung tâm học tập cộng đồng thị trấnP, huyện T,  xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 47/2017/HSST, ngày 06 tháng 7 năm 2017 đối với các bị cáo:

1. Trần Thanh L, sinh năm 1994 tại tỉnh Bình Thuận; nhân khẩu thường trú và chỗ ở: khu phố Xuân Giang 1, thị trấn P, huyện T, tỉnh Bình Thuận; học vấn: không biết chữ; nghề nghiệp: không; con ông Trần Văn T và bà Ngô Thị U; tiền án: 2 tiền án: tại bản án hình sự sơ thẩm số: 03/2014/HSST, ngày 08/01/2014 của Tòa án nhân dân huyện T xử phạt Trần Thanh L 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” và tại bản án hình sự sơ thẩm số: 139/2015/HSST, ngày 23/12/2015 của Tòa án nhân dân huyện T xử phạt Trần Thanh L 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 26/9/2016, tiền sự: không; bị tạm giam từ ngày 09/3/2017; có mặt.

2. Trương Nhật Tr, sinh năm 1998 tại Bình Thuận; nhân khẩu thường trú và chỗ ở: khu phố Xuân Giang 2, thị trấn P, huyện T, tỉnh Bình Thuận; trình độ học vấn: 10/12; nghề nghiệp: không; con ông (không rõ) và bà Trương Thị H; tiền án: không, tiền sự: ngày 24/10/2016 bị Công an thị trấn P xử phạt 750.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản; bị tạm giam từ ngày 09/3/2017; có mặt.

NHẬN THẤY

Các bị cáo Trần Thanh L và Trương Nhật Tr bị Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố về hành vi phạm tội như sau:  Phan Nhựt B và Phan Nhựt H là đối tượng nghiện ma túy, qua tìm hiểu Bình biết Trần Thanh L có bán ma túy nên khoảng 18 giờ ngày 08/3/2017 Phan Nhựt B và Phan Nhựt H đi đến nhà của L ở khu phố Xuân Giang 1, thị trấn P để mua ma túy, lúc đó L đi vắng chỉ có Trương Nhật Tr đang ở nhà của L. Do không có L ở nhà nên Bình hỏi Tr mua ma túy thì Trcho số điện thoại di động của L cho Bình trực tiếp gọi hỏi mua ma túy. L đồng ý quay về nhà L và bảo Trnhận trước số tiền 300.000 đồng của B và H rồi đưa tiền lại cho L. L một mình điều khiển xe mô tô đi đến khu vực chùa Tùng Lâm thuộc xã P, huyện B gặp người thanh niên tên Quậy (không rõ lai lịch) mua một gói ma túy đá với giá 300.000 đồng cất giấu trong người mang về bán cho B và H.

Tiếp đến khoảng 13 giờ 30 phút ngày 09/3/2017, L đang ở nhà thì B gọi vào số thuê bao 0961647353 của L hỏi mua 01 gói ma túy đá, L đồng ý và hẹn đến khu vực phía sau cửa hàng Thái Thảo thuộc khu phố Xuân Giang 1, thị trấn P giao nhận ma túy. L điều khiển xe mô tô biển số 85F1-108.50 chở Tr đến gặp B và H, L bảo Tr lấy số tiền 300.000 đồng của B và H rồi L điều khiển xe mô tô biển số 85F1-108.50 chở Tr đến quán nước mua 02 ly trà chanh hết 10.000 đồng lấy từ số tiền 300.000 đồng. L tiếp tục điều khiển xe mô tô chở Tr đến khu vực chùa Tùng Lâm thuộc xã P, huyện B mua của người thanh niên tên Quậy (không rõ lai lịch) 01 gói ma túy đá với giá 290.000 đồng cất giấu trong người mang về đến điểm hẹn nêu trên. L bảo Bình ngồi lên xe mô tô biển số 85F1-108.50 phía sau Tr cho L chở đi giao ma túy trên đường nhằm tránh bị phát hiện. L chạy được khoảng 200 mét thì L đưa gói ma túy đá ra phía sau cho Tr nhận giao lại cho B, khi biết B đã nhận ma túy xong thì L dừng xe lại cho B xuống xe thì bị lực lượng công an phát hiện bắt quả tang.

Thu giữ trong người của Bình 01 gói nylon màu trắng dài khoảng 01x03cm, được hàn kín bên trong có chứa tinh thể màu trắng, B khai nhận là ma túy đá vừa mua của Trần Thanh L với giá 300.000 đồng. Thu giữ trên người Trần Thanh L 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh,đen, model: 105, Imel: 358977/05/081559/3, số tiền 520.000 đồng và 01 xe mô tô biển số 85F1-108.50.

Tiến hành khám xét khẩn cấp tại nhà của Trần Thanh L ở khu phố Xuân Giang 1, thị trấn P, huyện T thu giữ: 01 lọ thủy tinh cao 15cm có nắp nhựa đậy lại, trên nắp có thủng 02 lỗ, một lỗ có gắn nỏ thủy tinh, một lỗ có gắn ống nhựa hút nước uống màu xanh dài 25cm, L khai nhận là dụng cụ dùng để sử dụng ma túy đá.

Tại bản Kết luận giám định số 158/KLGĐMT-PC54 ngày 10/3/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận: Mẫu M gửi đến giám định có khối lượng 0,0773 gam; là Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số: 48/QĐ/KSĐT/VKS-HS, ngày 05/7/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố bị cáo Trần Thanh L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, p khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự và bị cáo Trương Nhật Tr về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự.

Kiểm sát viên đề nghị: áp dụng điểm b, p khoản 2 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 53; Điều 33 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Thanh L từ 8 năm đến 8 năm 6 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 53; Điều 33 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trương Nhật Tr từ 7 năm đến 7 năm 6 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và bị cáo.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa, lời khai của các bị cáo Trần Thanh L và Trương Nhật Tr phù hợp với lời khai của người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở khẳng định các bị cáo đã thực hiện hành vi như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát.

Bị cáo Trần Thanh L là công dân nhận thức được hành vi của mình, biết hành vi mua bán ma túy là vi phạm pháp luật hình sự, nhưng với bản tính xem thường pháp luật nên bị cáo đã mua Methamphetamine hay còn gọi là ma túy đá để bán cho những người nghiện.

Khoảng 18 giờ ngày 08/3/2017 Phan Nhựt B và Phan Nhựt H đi đến nhà của L ở khu phố Xuân Giang 1, thị trấn P để mua ma túy, lúc đó L đi vắng chỉ có Trương Nhật Tr đang ở nhà của L. Do không có L ở nhà nên B hỏi Tr mua ma túy thì Trương Nhật Tr mặc dù biết việc mua bán má túy là vi phạm pháp luật hình sự nhưng vẫn giúp L, Tr cho số điện thoại di động của L cho B trực tiếp gọi hỏi mua ma túy. L đồng ý quay về nhà L và bảo Tr nhận trước số tiền 300.000 đồng của B và H rồi đưa tiền lại cho L. L một mình điều khiển xe mô tô đi lấy 01 gói ma túy mang về bán cho B và H.

Tiếp đến khoảng 13 giờ 30 phút ngày 09/3/2017, L đang ở nhà thì B gọi vào số thuê bao 0961647353 của L hỏi mua 01 gói ma túy đá, L đồng ý và hẹn đến khu vực phía sau cửa hàng Thái Thảo thuộc khu phố Xuân Giang 1, thị trấn P giao nhận ma túy. L điều khiển xe mô tô biển số 85F1-108.50 chở Tr đến gặp B và H, L bảo Tr lấy số tiền 300.000 đồng của B và H rồi L điều khiển xe mô tô biển số 85F1-108.50 chở Tr đến quán nước mua 02 ly trà chanh hết 10.000 đồng lấy từ số tiền 300.000 đồng. L tiếp tục điều khiển xe mô tô đi lấy 01 gói ma túy đá cất giấu trong người mang về đến điểm hẹn nêu trên. L bảo Bình ngồi lên xe mô tô biển số 85F1-108.50 phía sau Tr cho L chở đi giao ma túy trên đường nhằm tránh bị phát hiện. L chạy được khoảng 200 mét thì L đưa gói ma túy đá ra phía sau, B nhận ma túy xong thì L dừng xe lại cho B xuống xe thì bị lực lượng công an phát hiện bắt quả tang.

Hành vi bán 2 lần 2 gói Methamphetamine hay còn gọi là ma túy đá cho Phan Nhựt H và Phan Nhựt B của các bị cáo Trần Thanh L và Trương Nhật Trđã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khỏan 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự. Riêng bị cáo Trần Thanh L, nhân thân của bị cáo có 2 tiền án và tại bản án hình sự sơ thẩm số: 139/2015/HSST, ngày 23/12/2015 của Tòa án nhân dân huyện T xác định bị cáo “tái phạm” nên hành vi của bị cáo còn phạm thêm vào tình tiết định khung hình phạt là “tái phạm nguy hiểm” theo điểm p khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự, như cáo trạng của Viện kiểm sát và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

Các bị cáo Trần Thanh L và Trương Nhật Tr cùng thống nhất ý chí thực hiện hành vi phạm tội, nhưng không có sự phân công câu kết chặt chẽ nên chỉ là đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo L là người rủ rê bị cáo Tr, đồng thời là người thực hiện hành vi phạm tội tích cực nên tính chất, mức độ hành vi nghiêm trọng hơn bị cáo Trchỉ là người giúp sức cho bị cáo L thực hiện hành vi.

Hành vi của các bị cáo đã xâm hại đến chế độ quản lý độc quyền về ma túy của Nhà nước ta, đe dọa nghiêm trọng đến an tòan, trật tự công cộng, sức khỏe và sự phát triển lành mạnh của nòi giống cũng như ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội; nên phải xử lý các bị cáo thật nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài, nhằm giáo dục các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời qua đó nhằm giáo dục và phòng ngừa chung.

Trong giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo khai báo thành khẩn là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự; xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt, để thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Nhà nước chúng ta.

Về phần tang vật của vụ án:

01 điện thoại di động màu xanh đen, hiệu Nokia, model: 105, Imel: 358977/05/081559/3 của bị cáo Trần Thanh L, đây là công cụ dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung quỹ Nhà nước. 01 lọ thủy tinh cao 15cm có nắp nhựa đậy lại, trên nắp có thủng 02 lỗ, một lỗ có gắn nỏ thủy tinh, một lỗ có gắn ống nhựa hút nước uống màu xanh dài 25cm; 01 gói nylon đã cắt lấy mẫu và 0,0605 gam mẫu vậtcòn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 158; Methamphetamine là vật cấm lưu hành, dụng cụ dùng để sử dụng ma túy và gói ny lon là vật không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Số tiền bị cáo L bán ma túy thu được là 600.000 đồng, đây là tiền phạm tội mà có nên tịch thu sung quỹ Nhà nước, hiện đang tạm giữ của bị cáo 520.000 đồng nên tịch thu số tiền này và buộc bị cáo nộp tiếp 80.000 đồng để sung quỹ Nhà nước.

Riêng xe mô tô biển số 85F1-108.50, Trần Thanh L mượn của bạn là Đinh Văn T, chủ sở hữu xe là Đinh Văn T là cha của T, do Tr và T không biết L dùng xe mô tô để đi mua bán ma túy nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho T là đúng quy định pháp luật nên không xem xét thêm.

Về án phí: các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Trần Thanh L và Trương Nhật Tr phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm b, p khoản 2 Điều 194; Điều 53; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Thanh L 8 (tám) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 09/3/2017.

Áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 194; Điều 53; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Trương Nhật Tr 7 (bảy) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 09/3/2017.

Áp dụng: điểm a, b, c khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự; điểm a, c, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động màu xanh đen, hiệu Nokia, model: 105, Imel: 358977/05/081559/3 và tịch thu tiêu hủy 01 lọ thủy tinh cao 15cm có nắp nhựa đậy lại, trên nắp có thủng 02 lỗ, một lỗ có gắn nỏ thủy tinh, một lỗ có gắn ống nhựa hút nước uống màu xanh dài 25cm; 01 gói nylon đã cắt lấy mẫu và 0,0605 gam mẫu vật còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 158. (tang vật hiện đang được tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện T theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/7/2017 với Công an huyện T)

Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 520.000 đồng tại biên lai thu tiền số 006658 ngày 29/6/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T và buộc bị cáo L tiếp tục nộp lại 80.000 đồng để sung quỹ Nhà nước.

Áp dụng: Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo L và Tr mỗi người phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm

Án xử công khai, bị cáo có mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2017/HSST ngày 28/07/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:45/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tánh Linh - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về