TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 449/2019/HS-PT NGÀY 16/10/2019 VỀ TỘI HIẾP DÂM VÀ CƯỚP TÀI SẢN
Ngày 16 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 350/2019/HSPT ngày 22/8/2019 đối với bị cáo Võ Thanh T, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 140/2019/HSST ngày 16/7/2019 của Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị cáo có kháng cáo:
Võ Thanh T, sinh ngày 15/7/1990; tại CT; giới tính: Nam; nơi đăng ký thường trú: Ấp TH, xã TT, huyện TL, thành phố CT (đã bỏ địa phương đi đâu không rõ từ năm 2015); chỗ ở: không có nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn Hoàng A (chết) và bà Trần Thị B; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không;
- Bị bắt, tạm giam từ ngày 25/3/2019 (Có mặt).
Những người tham gia tố tụng khác:
1/Bị hại: Chị Phạm Bé M, sinh năm 1982; nơi đăng ký thường trú: Ấp TT, thị trấn TB, huyện TB, tỉnh ĐT; chỗ ở: Phòng trọ số 01, thuộc nhà số 02, đường HHL, Khu phố 3, phường AL, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trong lúc Võ Thanh T đến phòng trọ của bạn là anh Võ Văn Phúc chơi thì nhìn thấy chị Phạm Bé M đang ở một mình tại phòng số 01 nhà số 02 HHL, Khu phố 3, phường AL, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh. Lúc này, do cần tiền mua ma Ty sử dụng và chơi game bắn cá nên T nảy sinh ý định đột nhập vào phòng dùng dao khống chế chị M để chiếm đoạt tài sản. Đến khoảng 18 giờ 00 phút ngày 13/10/2018, T chuẩn bị sẵn một con dao Thái Lan (cán nhựa dài khoảng 10cm, lưỡi bằng kim loại dài khoảng 15cm) đi đến phòng chị M, T đẩy cửa xông vào và chốt cửa lại. Liền sau đó, tay phải T cầm dao kề vào cổ chị M và nói “nếu mày la lên tao sẽ giết mày”; vừa nói xong, T dùng tay trái tát vào mặt chị M 02 cái theo hướng đứng đối diện. Do muốn quan hệ tình dục với chị M trước nên T dùng tay đẩy chị M nằm xuống rồi kêu chị M cởi quần ra. Vì quá lo sợ nên chị M làm theo nhưng chỉ cởi quần xuống đến đầu gối. Còn T tự cởi quần mình ra đến đầu gối, sau đó đưa dương vật đang cương cứng vào âm đạo của chị M thực hiện quan hệ tình dục theo tư thế quỳ khoảng từ 2–3 phút thì xuất tinh trong âm đạo chị M. Sau khi T dùng khăn của chị M vệ sinh dương vật và kéo quần lên xong, T tiếp tục kề dao vào cổ chị M kêu đưa tiền và nói: “mày nói với ai tao cắt cổ mày”. Đến lúc này, vì quá lo sợ nên chị M lấy từ trong Ti quần ra 2.535.000 đồng và van xin để dành tiền đóng tiền thuê phòng trọ nên T chỉ lấy 1.035.000 đồng rồi tẩu thoát; trên đường đi T đã vứt bỏ con dao chỗ nào không nhớ; còn chị M đến Công an phường AL trình báo.
Sau khi tiếp nhận sự việc, Công an phường AL thông báo cho Cơ quan điều tra đến khám nghiệm hiện trường và thụ lý giải quyết theo thẩm quyền. Đến ngày 24/3/2019, T đến Cơ quan điều tra đầu thú theo thông báo truy tìm và khai nhận toàn bộ hành vi như vừa đã nêu.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 140/2019/HSST ngày 16/7/2019 của Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Áp dụng khoản 1 Điều 141; điểm d khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 01 Bộ luật Hình sự năm 2015;
Xử phạt bị cáo Võ Thanh T 04 (bốn) năm tù về tội “Hiếp dâm” và 08 (tám) năm tù về tội “Cướp tài sản”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Võ Thanh T phải chấp hành hình phạt chung của cả hai tội là 12 (M hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/3/2019.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 29/7/2019, bị cáo Võ Thanh T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, bản thân là lao động chính.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Võ Thanh T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát thức hành quyền công tố tại phiên tòa sau khi tóm tắt nội dung vụ án, phân tích về tính chất, mức độ phạm tội và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đã kết luận đủ căn cứ xác định bản án sơ thẩm xét xử bị cáo Võ Thanh T về các tội “Hiếp dâm” và “Cướp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 141 và điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có cơ sở pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Võ Thanh T kháng cáo trong thời gian luật định và hợp lệ nên cần được xem xét. Khi quyết định hình phạt, án sơ thẩm đã nhận định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử phạt bị cáo Võ Thanh T mức án 12 (M hai) năm tù về hai tội là thỏa đáng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và người bị hại có đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là tình tiết giảm nhẹ mới; nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Thanh T; áp dụng điểm b khoản 1 Điều 301 và điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa bản án sơ thẩm theo hướng xử phạt bị cáo Võ Thanh T mức án 03 năm tù về tội “Hiếp dâm” và 07 năm 06 tháng tù về tội “Cướp tài sản”.
Bị cáo không tranh luận bổ sung, chỉ nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt vì đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình và mong muốn được hưởng mức án khoan hồng để sớm chấp hành xong bản án làm lại cuộc đời.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Tại phiên tòa, bị cáo Võ Thanh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản án sơ thẩm, phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố.
Xét theo các bản kết luận giám định Pháp y (về tình dục số 141/TD.18 ngày 24/10/2018, về dấu vết sinh học số 17.DVSH.18 ngày 25/10/2018, về ADN số 1.275A-2018/AND ngày 25/10/2018 và số 1.275B-2018/ADN ngày 27/3/2019) của Trung tâm Pháp y Sở Y tế thành phố Hồ Chí Minh, kết luận:
- Đối với chị Phạm Bé M: Màng trinh: Dãn rộng, rách mới tại vị trí 3 giờ; Có tinh trùng trong dịch phết âm đạo và vùng hậu môn; Lập được hoàn chỉnh hồ sơ ADN của một người nam trong âm đạo và vùng hậu môn, đủ cơ sở đối chiếu với mẫu ADN của đối tượng nam.
- Về dấu vết sinh học thu giữ tại hiện trường: Đã lập được hồ sơ ADN (vết ố trên khăn vải; phần không có vết ố trên khăn vải; vết nâu đỏ trên mảnh chiếu;
phần không có vết nâu đỏ trên mảnh chiếu; vết nâu đỏ trên khăn giấy; và phần không có vết nâu đỏ trên khăn giấy) đủ làm cơ sở so sánh đối chiếu.
- Về dấu về AND của Võ Thanh T có hiện trong: Phết dịch âm đạo của Phạm Bé M; Phết vùng hậu môn của Phạm Bé M; Vết ố trên khăn vải; Phần không có vết ố trên khăn vải; Vết nâu đỏ trên mảnh chiếu; Phần không có vết nâu đỏ trên mảnh chiếu; Vết nâu đỏ trên khăn giấy; Phần không có vết nâu đỏ trên khăn giấy.
Đối chiếu lời khai nhận của bị cáo Võ Thanh T tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa về cơ bản phù hợp với: biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, biên bản niêm phong vật chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường (kèm bản ảnh hiện trường), bản kết luận giám định pháp y về ADN, bản kết luận giám định pháp y về tình dục, lời khai người bị hại; cùng các biên bản về hoạt động tố tụng của Cơ quan điều tra đã thu thập có trong hồ sơ vụ án.
Đã có đủ cơ sở để kết luận: vào khoảng 18h00’ ngày 13/10/2018, bị cáo Võ Thanh T đã có hành vi sử dụng 01 con dao Thái Lan (cán nhựa dài khoảng 10cm, lưỡi bằng kim loại dài khoảng 15cm) kề vào cổ chị Phạm Bé M để uy hiếp, dùng vũ lực tát vào mặt chị M 02 cái và dùng lời nói để đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực làm chị Phạm Bé M tê liệt ý trí kháng cự và lâm vào tình trạng không thể chống cự được, để thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn với chị M; liền sau đó, Võ Thanh T tiếp tục dùng con dao con dao Thái lan kề vào cổ chị M và dùng lời nói đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản là số tiền 1.035.000 đồng của chị M; tại phòng trọ số 01 nhà số 02 HHL, Khu phố 3, phường AL, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh.
Hành vi của bị cáo Võ Thanh T là rất nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm và quyền bất khả xâm phạm về tình dục của phụ nữ, mà còn xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị hại được pháp luật hình sự bảo vệ; gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Bị cáo Võ Thanh T là người có đầy đủ khả năng nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng để thỏa mãn dục vọng thấp hèn của bản thân cũng như muốn có tiền mua ma túy sử dụng và chơi game bắn cá, vẫn cố ý phạm tội.
Xét, khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của chị M, bị cáo Võ Thanh T đã sử dụng 01 con dao Thái lan lưỡi nhọn bằng kim loại là hung khí để uy hiếp tấn công, đe dọa đến sự an toàn về tính mạng, sức khỏe của bị hại; nên đã phạm tội thuộc trường hợp “sử dụng phương tiện nguy hiểm”, là tình tiết tình tiết định khung trách nhiệm hình sự của bị cáo về tội “Cướp tài sản”.
Do đó, với hậu quả gây ra cho bị hại cùng trị giá tài sản chiếm đoạt và hành vi nêu trên của bị cáo Võ Thanh T, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Võ Thanh T phạm các tội “Hiếp dâm” và “Cướp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 141 và điểm d khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ pháp luật, đúng người, đúng tội, không oan sai.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 29/7/2019, bị cáo Võ Thanh T có đơn kháng cáo là làm trong thời hạn luật định và hợp lệ.
Về nội dung kháng cáo: Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định về các tình tiết giảm nhẹ: bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và đã ra đầu thú; để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt đáng ra phải chịu và xử phạt bị cáo Võ Thanh T mức án 04 (bốn) năm tù về tội “Hiếp dâm”, 08 (tám) năm tù về tội “Cướp tài sản” là thỏa đáng; mới đủ tác dụng để răn đe, giáo dục bị cáo nói riêng và công tác đấu tranh phòng chống tội phạm chung.
Tại phiên tòa phúc thẩm, mặc dù bị cáo Võ Thanh T không xuất trình được tài liệu để chứng minh có tiết giảm nhẹ gì mới nhưng sau khi xét xử sơ thẩm, bị hại có đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và trình bày: giữa bị cáo và bị hại có mối quan hệ quen biết, có thời gian tìm hiểu và tình cảm thân thiết từ trước; do tranh cãi và bất đồng ý kiến nên vào ngày xảy ra vụ án đã làm đơn tố cáo bị cáo; đây là tình tiết giảm nhẹ mới theo quy định tại Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cần được xem xét. Ngoài ra, về nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự và gia đình có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế nên về hình phạt, có cân nhắc để giảm nhẹ cho bị cáo Võ Thanh T một phần hình phạt đáng ra phải chịu về tội “Hiếp dâm”. Đối với tội “Cướp tài sản”, mức án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là phù hợp và đã xem xét toàn diện, khách quan tính chất, mức độ phạm tội nên không có cơ sở để giảm án. Bị cáo Võ Thanh T phạm nhiều tội bị xét xử, xử phạt tù có thời hạn nên cần tổng hợp hình phạt chung theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 01 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Do đó, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Thanh T và sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm hình phạt cho bị cáo Võ Thanh T về tội “Hiếp dâm”.
+Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo Võ Thanh T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
+Các vấn đề khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 301 và điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Thanh T và sửa bản án sơ thẩm.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 141; điểm d khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 01 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt: bị cáo Võ Thanh T 03 (ba) năm tù về tội “Hiếp dâm”, 08 (tám) năm tù về tội “Cướp tài sản”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Võ Thanh T phải chấp hành hình phạt chung là 11 (M một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/3/2019.
Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 449/2019/HS-PT ngày 16/10/2019 về tội hiếp dâm và cướp tài sản
Số hiệu: | 449/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về