Bản án 447/2021/DS-PT ngày 02/06/2020 về tranh chấp quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 447/2021/DS-PT NGÀY 02/06/2020 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 26 tháng 5 và ngày 02 tháng 6 năm 2020 tại Phòng xử án Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, số 131 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường Bến Thành, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 551/2014/TLPT-DS, ngày 05 tháng 12 năm 2019, về việc: “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 281/2014/DS-ST ngày 16/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 2186/2020/QĐ-PT ngày 04/5/2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, giữa:

1.Nguyên đơn: Bà Trần Thị N1, sinh năm 1949.

Địa chỉ: Đường P, Tổ S, khu phố D, thị trấn N, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.

Ủy quyền ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1975 - Đại diện(Có mặt).

Địa chỉ: Đường P, Tổ S, khu phố D, thị trấn N, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Văn bản ủy quyền ngày 15/5/2019).

2. Bị đơn: Bà Huỳnh Thị Xuân N2, sinh năm 1952.

Địa chỉ: Đường P, khu phố F, thị trấn N, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Ủy quyền ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1984 - Đại diện (Có mặt). Địa chỉ: Đường L, xã Đ, huyện M, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Văn bản ủy quyền ngày 24/02/2020).

3.Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Ông Nguyễn Huỳnh H, sinh năm 1979 (Có đơn xin vắng mặt).

Địa chỉ: Đường P, khu phố 4, thị trấn N, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

3.2. Ủy ban nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh Địa chỉ: đường K, ấp 1, xã X, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh (Có đơn xin vắng mặt).

4. Người kháng cáo: Bị đơn - bà Huỳnh Thị Xuân N2.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm, sự việc được tóm tắt như sau:

Trong đơn khởi kiện ngày 10/12/2014, đơn khởi kiện bổ sung ngày 06/9/2016 và tại phiên tòa nguyên đơn bà Trần Thị N1 ủy quyền ông Nguyễn Thanh T trình bày: Bà Trần Thị N1 được Ủy ban nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: CH 05552 ngày 27/01/2014 đối với diện tích đất 286 m2 thuộc thửa đất số 501, tờ bản đồ số 14, tại thị trấn N, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. Nguồn gốc đất do cha mẹ của ông Nguyễn Anh Kiệt khai phá trước năm 1975, sau đó để lại cho ông Kiệt sử dụng. Đến năm 1982 ông Kiệt chết để lại cho con nuôi là ông Nguyễn Thành Công (ông Công là chồng của bà Trần Thị N1, chết năm 2001) và vợ chồng bà N1 sử dụng đến nay. Phần đất đang tranh chấp trước đây là ao, vũng lâu ngày được bồi đắp, san lấp như hiện nay. Trên diện tích đất này không có vật kiến trúc hay công trình xây dựng.

Trong quá trình sử dụng đất, năm 2014 bà N1 phát hiện bà Huỳnh Thị Xuân N2 là người sử dụng đất liền kề lấn chiếm phần đất của bà N1 là 61,1 m2.

Nay bà N1 yêu cầu Tòa án buộc bà N2 phải trả lại phần đất đã lấn chiếm có diện tích 61,1 m2 thuộc thửa 501 tờ bản đồ số 14, tại thị trấn N, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Trong đơn phản tố đề ngày 12/7/2017 và tại phiên tòa bà Huỳnh Thị Xuân N2 là bị đơn trình bày: Diện tích đất 61,1 m2 thuộc thửa 501 tờ bản đồ số 14, tại thị trấn N, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh là đất rạch, bà là người trực tiếp sử dụng phần đất này từ năm 1963 đến nay nên bà N1 yêu cầu bà trả lại diện tích đất 61,1 m2 bà không đồng ý. Nay, bà có yêu cầu phản tố yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: CH 05552 do Ủy ban nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho bà N1 ngày 27/01/2014, vì quá trình cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà N1 là không đúng quy định của pháp luật, với lý do như sau: Ủy ban không ký xác định giáp ranh, xác định tứ cận, diện tích 61,1 m2 là đất rạch, bà là người trực tiếp sử dụng đất này từ năm 1963 tại sao không cấp giấy chứng nhận cho bà mà lại cấp giấy cho bà N1; Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án có đề nghị Ủy ban nhân dân thị trấn N, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức họp đại diện một số hộ dân sinh sống lâu đời tại địa phương biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đối với phần đất diện tích 61,1 m2, tuy nhiên bà không được mời tham dự. Hơn nữa, những người được mời họp lại là những người trẻ tuổi, không biết về nguồn gốc đất tranh chấp.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1.Ông Nguyễn Huỳnh H trình bày: Ông là con của bà N2. Ông có cùng ý kiến như bà N2 đã trình bày.

2.Ủy ban nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh có văn bản nêu ý kiến như sau: Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: CH 05552 ngày 27/01/2014 thuộc thửa 501 tờ bản đồ số 14 cho bà Trần Thị N1 là đúng tọa độ, vị trí, diện tích theo trình tự của pháp luật bao gồm: Đơn đề nghị, Đơn cam kết, Bản đồ hiện trạng, Văn bản số: 671/UBND ngày 23/12/2013 của Ủy ban nhân dân thị trấn N, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. Việc xác định ranh do chủ sử dụng xác định và đã được Ủy ban nhân dân thị trấn N, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh xác định tại Văn bản số: 671/UBND ngày 23/12/2013.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 281/2014/DS - ST ngày 16 -10-2019 của Tòa án nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh, tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Buộc bà Huỳnh Thị Xuân N2 phải trả lại phần đất diện tích 61,1 m2 thuộc thửa 501 tờ bản đồ số 14 (thuộc vị trí số 3 và số 4 của Bản đồ hiện trạng vị trí – xác định ranh ngày 07/6/2016 của Trung tâm đo đạc bản đồ, Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh), tọa lạc tại thị trấn N, huyện B theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH 05552 ngày 27/01/2014 cho bà Trần Thị N1. Thực hiện ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về việc đề nghị hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH 05552 do Ủy ban nhân dân huyện B cấp bà Trần Thị N1 ngày 27/01/2014.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự và quy định về thi hành án.

Ngày 25/10/2019, bà Huỳnh Thị Xuân N2 có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị đơn bà Huỳnh Thị Xuân N2 có ông Nguyễn Văn Q đại diện theo ủy quyền trình bày kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án dân sự sơ thẩm không công nhận diện tích đất 61,1 m2 thuộc thửa 501 tờ bản đồ số 14, tại thị trấn N, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh thuộc quyền sử dụng của nguyên đơn và chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: CH 05552 do Ủy ban nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho bà Trần Thị N1 ngày 27/01/2014, vì quá trình cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn là không đúng quy định của pháp luật.

Nguyên đơn bà Trần Thị N1 có ông Nguyễn Thanh T đại diện theo ủy quyền không đồng ý yêu cầu kháng cáo của bị đơn và đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Huỳnh H có đơn xin vắng mặt.

2. Ủy ban nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh có đơn xin vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu:

Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử, thẩm phán thực hiện đúng theo quy định của pháp luật và tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thực hiện đúng theo trình tự của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Các đương sự chấp hành đúng theo quy định của phát luật.

Về nội dung: Căn cứ công văn số: 2064/UBND-TNMT ngày 12/9/2018 của Ủy ban nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: CH 05552 ngày 27/01/2014 của Ủy ban nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh thì có cơ sở xác định diện tích đất 61,1 m2, thửa 501 tờ bản đồ số 14, tại thị trấn N, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh thuộc quyền sử dụng của bà Trần Thị N1 nên cấp sơ thẩm buộc bà N2 trả lại diện tích đất 61,1 m2 cho N1 và không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà N2 về hủy Giấy chứng nhận đã cấp cho bà N1 là có căn cứ. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Huỳnh Thị Xuân N2. Tuy nhiên, phần án phí dân sự sơ thẩm bà N2 là người cao tuổi, theo quy định của pháp luật, bà N2 được miễn án phí. Do vậy, đề nghị sửa bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng, tranh luận tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện Ủy ban nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; ông Nguyễn Huỳnh H là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều có đơn xin vắng mặt. Căn cứ vào khoản 2 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định của pháp luật.

[2] Bị đơn bà Huỳnh Thị Xuân N2 có ông Nguyễn Văn Q kháng cáo yêu cầu Tòa án không công nhận diện tích đất 61,1 m2 thuộc thửa 501 tờ bản đồ số 14, tại thị trấn N, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh thuộc quyền sử dụng của nguyên đơn bà Trần Thị N1.

[2.1] Tại phiên tòa phúc thẩm ông Nguyễn Thanh T đại diện nguyên đơn bà Trần Thị N1 trình bày diện tích 61,1 m2 đất thuộc thửa 501 tờ bản đồ số 14, tại thị trấn N, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh thuộc quyền sử dụng của bà N1 nên yêu cầu bị đơn bà Huỳnh Thị Xuân N2 trả lại phần diện tích nêu trên cho bà N1; Ngược lại ông Nguyễn Văn Q đại diện bà Huỳnh Thị Xuân N2 cho rằng diện tích 61,1 m2 đất thuộc thửa 501 là đất rạch và bà N2 sử dụng từ năm 1963 cho đến nay (trong quá trình sử dụng bà N2 không đóng thuế đất, không kê khai đất và cũng chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích đất nêu trên) nên thuộc quyền sử dụng của bà N2 nên bà N2 không đồng ý trả cho bà N1 diện tích đất nêu trên.

[2.2] Căn cứ Công văn số: 517/UBND ngày 30/8/2019 của Ủy ban nhân dân thị trấn N, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh có nội dung: “Đối với phần đất có diện tích 61,1m2 thuộc thửa 501 tờ bản đồ số 14 có nguồn gốc do cha mẹ của ông Nguyễn Anh K khai phá trước năm 1975, sau đó để lại cho ông K sử dụng đất. Đến năm 1982 ông Kiệt mất, ông Kiệt để lại cho con nuôi là ông Nguyễn Thành C (chồng bà Trần Thị N1) và vợ chồng bà N1 sử dụng đến nay”. Ông C chết năm 2001 (theo giấy chứng tử số: 64, Quyển số 1/2001 ngày 20/9/2001 của Ủy ban nhân dân thị trấn N, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh).

[2.3] Căn cứ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: CH 05552 do Ủy ban nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho bà Trần Thị N1 ngày 27/01/2014 và căn cứ vào Bản đồ hiện trạng vị trí - xác định ranh ngày 07/6/2016 của Trung tâm đo đạc bản đồ, Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh thì có cơ sở xác định phần đất có diện tích đất 61,1 m2 thuộc thửa 501 tờ bản đồ số 14, tại thị trấn N, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh thuộc quyền sử dụng của bà Trần Thị N1 nên cấp sơ thẩm buộc bà Huỳnh Thị Xuân N2 trả lại diện tích đất nêu trên cho bà N1 là có căn cứ nên không chấp nhận yêu cầu kháng cáo phần này của bà N2.

[2.4] Cấp sơ thẩm xác định diện tích đất 61,1 m2 nêu trên thuộc vị trí số 3 và số 4 của Bản đồ hiện trạng vị trí - xác định ranh do Trung tâm đo đạc bản đồ, Sở Tài Nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 07/6/2016 là không đúng. Căn cứ vào Bản đồ hiện trạng vị trí - xác định ranh do Trung tâm đo đạc bản đồ thuộc Sở Tài Nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 07/6/2016 thì diện tích đất 61,1 m2 thuộc thửa 501 tờ bản đồ số 14, tại thị trấn N, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh thuộc vị trí số 2 và số 4 chứ không phải thuộc vị trí số 3 như cấp sơ thẩm xác định nên cấp phúc thẩm sửa án phần này của cấp sơ thẩm.

[3] Đối với kháng cáo yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: CH 05552 do Ủy ban nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho bà Trần Thị N1 ngày 27/01/2014. .

[3.1] Căn cứ vào Văn bản số: 2064/UBND-TNMT ngày 12/9/2018 của Ủy ban nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh có nội dung: “Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: CH 05552 ngày 27/01/2014 thuộc thửa 501 tờ bản đồ số 14 cho bà Trần Thị N1 là đúng tọa độ, vị trí, diện tích theo trình tự của pháp luật bao gồm: Đơn đề nghị, Đơn cam kết, Bản đồ hiện trạng. Việc xác định ranh do chủ sử dụng xác định và đã được Ủy ban nhân dân thị trấn N, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh xác định tại Văn bản số: 671/UBND ngày 23/12/2013”. Do đó việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: CH 05552 cho bà Trần Thị N1 là hợp pháp theo quy định tại Điều 99 và Điều 100 Luật đất đai năm 2013 nên cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu phản tố của bà N2 yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: CH 05552 do Ủy ban nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho bà N1 ngày 27/01/2014 là có căn cứ nên không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà N2.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do bà Huỳnh Thị Xuân N2 là người cao tuổi nên được miễn án phí nên cấp phúc thẩm sửa phần án phí sơ thẩm.

[5] Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử, xét thấy yêu cầu kháng cáo của bà Huỳnh Thị Xuân N2 là không có cơ sở chấp nhận, sửa một phần bản án sơ thẩm như ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: do sửa bản án sơ thẩm nên bà Huỳnh Thị Xuân N2 không phải chịu án phí phúc thẩm nên bà N2 được hoàn lại 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng).

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

-Căn cứ khoản 2 Điều 148, khoản 2 Điều 308, Điều 309 và Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 100 Luật đất đai 2013;

- Căn cứ Điều 29 của Nghị quyết số:326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án;

- Căn cứ Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Huỳnh Thị Xuân N2.

2. Sửa một phần bản án sơ thẩm.

3. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Buộc bà Huỳnh Thị Xuân N2 phải trả lại phần đất diện tích 61,1 m2 thuộc thửa 501 tờ bản đồ số 14 (thuộc vị trí số 2 và số 4 của Bản đồ hiện trạng vị trí - xác định ranh của Trung tâm đo đạc bản đồ, Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 07/6/2016), tại thị trấn N, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH 05552 ngày 27/01/2014 cho bà Trần Thị N1.

4. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Huỳnh Thị Xuân N2 về việc yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất sổ CH 05552 do Ủy ban nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp bà Trần Thị N1 ngày 27/01/2014.

5. Án phí dân sự sơ thẩm: Do bà Huỳnh Thị Xuân N2 là người cao tuổi nên được miễn án phí. Hoàn lại cho bà Huỳnh Thị Xuân N2 số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu số 0007984 ngày 12/7/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Hoàn lại cho bà Trần Thị N1 số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 310.000 đồng (Ba trăm mười ngàn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 00989 ngày 24/12/2014 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

6. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Huỳnh Thị Xuân N2 không phải chịu.

Hoàn lại tiền tạm nộp án phí phúc thẩm cho bà Huỳnh Thị Xuân N2 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2018/0034600 ngày 30/10/2013 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 447/2021/DS-PT ngày 02/06/2020 về tranh chấp quyền sử dụng đất

Số hiệu:447/2021/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 02/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về