Bản án 447/2020/HNGĐ-ST ngày 30/09/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHÀ BÈ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 447/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 3 0 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 82/2020/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 02 năm 2020 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 518/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 27 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 572/2020/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1981. Địa chỉ: Ấp M, xã L, huyện C, tỉnh G (Có mặt)

Bị đơn: Ông Lý Anh T, sinh năm 1977. Địa chỉ: 51/10 Khu phố 6, thị trấn N, huyện B, Thành phố C. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 24/02/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị L trình bày:

Bà Nguyễn Thị L và ông Lý Anh T tự nguyện sống chung, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh theo giấy chứng nhận kết hôn số 02 ngày 14/01/2009.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông T thiếu trách nhiệm với gia đình, thường xuyên cờ bạc, đá gà và do mâu thuẫn kinh tế từ đó giữa vợ chồng không có tiếng nói chung, cuộc sống hôn nhân rất nặng nề, ông T uống rượu về kiếm chuyện chưởi mắng vợ con. Năm 2015, bà L đã nộp đơn ly hôn với ông T nhưng lúc đó do con còn nhỏ nên bà L rút đơn để vợ chồng có cơ hội hàn gắn lo cho con. Tuy nhiên sau khi rút đơn thì mâu thuẫn vợ chồng vẫn không có gì thay đổi, ông T vẫn thường xuyên cờ bạc, đá gà, uống rượu không lo cho gia đình, vợ con. Tháng 7/2019, bà L về nhà cha mẹ ruột sống, vợ chồng bà L, ông T ly thân từ năm 2019 đến nay; mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, không khắc phục được, mỗi người có cuộc sống riêng, không ai quan tâm đến ai.

Bà L nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể nào hàn gắn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông Lý Anh T để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Vợ chồng có 01 (một) con chung tên Lý Tân Q, sinh ngày 20/5/2009, hiện đang do bà L trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn bà L yêu cầu được tiếp tục nuôi con. Về cấp dưỡng nuôi con: bà L không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà L xác định không có, không yêu cầu Tòa giải quyết.

Toà án triệu tập bị đơn ông Lý Anh T tham gia phiên Toà vào lúc 08 giờ 00 phút ngày 14 tháng 9 năm 2020, ông T vắng mặt. Tại phiên toà ngày hôm nay, ông T đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng và nội dung trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng:

Qua kiểm sát giải quyết vụ án thì từ khi thụ lý đến thời điểm này thấy rằng Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Tại phiên tòa hôm nay, đương sự có mặt đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình và tuân thủ nội quy phiên tòa. Đối với bị đơn vắng mặt không lý do mặc dù Tòa án đã tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng về thời gian, địa điểm mở phiên tòa nên Tòa án xét xử vắng mặt là đúng quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cho ly hôn với ông Lý Anh T; giao con chung Lý Tân Q, sinh ngày 20/5/2009 cho bà L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; tài sản chung và nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Xét đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị L yêu cầu ly hôn với ông Lý Anh T, là quan hệ pháp luật tranh chấp “Ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn ông Lý Anh T hiện đang cư trú tại huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Bị đơn ông Lý Anh T đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên toà đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt mà không có lý do, căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông T.

Về yêu cầu của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét:

[3] Nguyên đơn bà Nguyễn Thị L yêu cầu ly hôn với ông T, nguyên nhân do ông T không có trách nhiệm với gia đình, thường xuyên cờ bạc, mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng không thể giải quyết được. Năm 2015, bà L đã gửi đơn ly hôn ông T nhưng lúc đó do con còn nhỏ nên bà L rút yêu cầu khởi kiện để vợ chồng có cơ hội hàn gắn. Tuy nhiên, sau đó mâu thuẫn vợ chồng vẫn không khắc phục được, mỗi người có cuộc sống riêng, không ai quan tâm đến ai. Bị đơn ông Lý Anh T được Toà án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án, từ bỏ quyền lợi của mình, không tham gia hoà giải, chứng tỏ ông T không có thiện chí hàn gắn, xây dựng tình cảm vợ chồng đối với bà L. Như vậy, có cơ sở xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa bà L và ông T là có thật và khả năng hàn gắn không còn, đời sống hôn nhân đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị L đối với ông Lý Anh T.

[4] Về con chung: Vợ chồng có 01 (một) con chung tên Lý Tân Q, sinh ngày 20/5/2009, hiện đang do bà L trực tiếp nuôi dưỡng ổn định. Khi ly hôn bà L yêu cầu được tiếp tục nuôi con là có cơ sở. Việc cấp dưỡng nuôi con: bà L không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà L xác định không có, không yêu cầu giải quyết.

[5] Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà L chịu án phí 300.000 đồng theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a, khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 273, Điều 278 và Điều 280 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự. Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị L được ly hôn với ông Lý Anh T.

- Về con chung: Giao con chung Lý Tân Q, sinh ngày 20/5/2009 cho bà L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Ghi nhận bà L không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, cha mẹ có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì quyền lợi của con khi cần thiết, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà L xác định không có, không yêu cầu giải quyết.

2. Án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng do bà Nguyễn Thị L nộp, được khấu trừ vào 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí mà bà L đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0034939 ngày 27/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà L đã nộp đủ án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị L được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; ông Lý Anh T được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

4. Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 447/2020/HNGĐ-ST ngày 30/09/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:447/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhà Bè - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về