Bản án 445/2019/HSST ngày 26/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 445/2019/HSST NGÀY 26/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 8 năm 2019, tại Hội trường, Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tiến hành xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 437/2019/HSST, ngày 30 tháng 7 năm 2019, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Ngô Đại D; Giới tính: nam; Tên gọi khác: H; Sinh ngày 15/10/1983. (Có mặt tại phiên tòa). ĐKHKTT và nơi ở: Tổ X, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Văn hoá: 12/12; Nghề nghiệp: Thợ cơ khí; Chưc vu (Đang, đoan thê , chính quyền ) trươc khi pham tôi: Không; Con ông: Ngô Xuân Đ , sinh năm 1949; Con bà: Lưu Thị H, sinh năm 1954; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai; Có vợ là Phạm Thị V, sinh năm 1982; có 01 con sinh năm 2013.

- Tiền án, Tiền sự: Không.

- Nhân thân:

Tại Quyết định số 111 ngày 30/9/2002 Công an phường Phan Đình Phùng, thành phố Thái Nguyên xử phạt vi phạm hành chính 100.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” (đã nộp phạt ngày 01/10/2002).

Tại bản án số 186 ngày 23/6/2015 Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt 12 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/01/2016, chấp hành xong án phí ngày 10/8/2015.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trai tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/4/2019).

2. Họ và tên: Ngô Thế V; Giơi tinh: Nam; Tên gọi khác: Không.

- Sinh ngày 18 tháng 3 năm 1984. .(Có mặt tại phiên tòa) - ĐKHKTT và nơi ở: tổ Y, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên - Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giao: Không; Văn hóa: 09/12; Nghề nghiệp: Thợ sửa chữa xe máy; Chưc vu (Đang, đoan thê, chính quyền) trươc khi phạm tội: Không; Con ông: Ngô Quang D (đã chết); Con bà: Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 1959; Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai; Có vợ là Nguyễn Thị H, sinh năm 1991, có 01 con sinh năm 2015.

- Tiền án: Không.

- Tiền sự: Tại Quyết định số 0034638 ngày 22/2/2019 Công an phường Túc Duyên, thành phố Thái Nguyên xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản.

Nhân thân Tại Quyết định số 0010447 ngày 28/6/2016 Công an thành phố Thái Nguyên xử phạt vi phạm hành chính 2.500.000 đồng về hành vi “ Xâm hại sức khỏe của người khác” (đã nộp phạt ngày 12/7/2016).

Tại Quyết định số 0027543 ngày 04/10/2017 Công an phường Phú Xá, thành phố Thái xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi “ Xâm hại sức khỏe của người khác” (đã nộp phạt ngày 09/10/2017).

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trai tam giam Công an tinh Thái Nguyên (bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/4/2019).

Người chứng kiến: Ông Đoàn Quốc T, sinh năm 1959.(Vắng mặt tại phiên tòa)

Nơi cư trú: Tổ A, phường T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 10 giờ 15 phút ngày 24/4/2019, tổ công tác của Công an phường Tân Thịnh, thành phố Thái Nguyên đang tuần tra, kiểm soát tại khu vực tổ B của phường phát hiện 02 nam thanh niên đi trên chiếc xe mô tô nhãn hiệu Vi va màu xanh BKS 29P9-0041 có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiếp cận, yêu câu kiểm tra, 02 nam thanh niên khai tên (Ngô Đại D và Ngô Thế V). V đã tự nguyện giao nộp 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong có có chứa chất bột màu trắng (D và V nhận là Heroine) vừa mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác mời người chứng kiến, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra , tô công tac con thu giư 02 chiêc điên thoại di động (01 điện thoại Mobell màu trắng, 01 điện thoại Nokia 105 màu đen) và 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Vi va màu xanh BKS 29P9 - 0041.

Cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành cân xác định khối lượng số chất bột dạng cục mầu trắng thu giữ của Ngô Đại D và Ngô Thế V có khối lượng là 0,112 gam Tại bản Kết luận giám định số 704/KL-KTHS ngày 02/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của V, D là chất ma túy, loại Heroine có trọng lượng là 0,112gam.

Tại kết luận giám định số 777/KL-KTHS ngày 16/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Xe mô tô nhãn hiệu: Suzuki Vi va, màu sơn xanh, biển kiểm soát 29P9-0041 có số khung nguyên thủy là: RLSBE4AB040114554; Số máy nguyên thủy là: E438-VN114554.

Tại cơ quan điều tra Ngô Thế V và Ngô Đại D khai nhận: Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 24/4/2019 Ngô Đại D gọi điện cho Ngô Thế V rủ đi mua ma túy về để sử dụng, V đồng ý và nói với D là V không có tiền, D nói với V là D có 100.000 đồng rồi bảo V là sẽ đón ở ngã tư Đ, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên. Theo như đã hẹn D điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 29P9 - 0041 đón V tại ngã tư Đ, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên, khi đến khu vực chợ Đ, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên để tìm mua ma túy, tại đây D, V gặp một người đàn ông không quen biết và hỏi mua Heroine với giá 100.000 đồng, sau đó D đưa tiền cho người đàn ông đó, người đàn ông đó cầm tiền và đưa cho V 01 gói Heroine được gói bằng giấy bạc màu trắng. Sau khi mua ma túy xong V cầm gói Heroine ở lòng bàn tay trái, D tiếp tục điều khiển xe mô tô trở V ngồi đằng sau, vào khu nghĩa trang thuộc tổ B phường T , thành phố T, tỉnh Thái Nguyên tìm nơi sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường phát hiện bắt giữ như đã nêu trên.

Vật chứng của vụ án: - 01 (môt) bì niêm phong ký hiệu A 1 bên trong chứa Heroine;

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Vi va, màu xanh, BKS 29P-0041.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, số Imei: 351750/06/811693/3 trong máy có gắn sim điện thoại Viettel;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell màu trắng, số Imei: 810023600016981, trong máy có gắn sim điện thoại Viettel

Tại bản cáo trạng số 432/CT-VKSTPTN, ngày 27/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đã truy tố Ngô Đại D và Ngô Thế V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đã khai nhận khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và như bản cáo trạng đã mô tả. Các bị cáo thừa nhận việc truy tố là đúng, không oan, sai.

Tại phần tranh luận, vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Ngô Thế V và Ngô Đại D , đã công bố bản luận tội đề nghị Hội đồng xét xử truyên bố bị cáo ngô Đại D và Ngô Thế V phạm tội “ Tràng trữ tái phép chật ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38. Xử phạt Ngô Thế V từ 24 đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/4/2019, bị cáo Ngô Đại D từ 24 đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/4/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy vật chứng: 01 (môt) bì niêm phong ký hiệu A 1 bên trong chứa Heroine; Tịch thu sung quỹ nhà nước vật chứng là: 01 xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Vi va, màu xanh, BKS 29P-0041; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, số Imei: 351750/06/811693/3 trong máy có gắn sim điện thoại Viettel; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell màu trắng, số Imei: 810023600016981, trong máy có gắn sim điện thoại Viettel.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí HSST nộp ngân sách nhà nước.

Trong phần tranh luận, các bị cáo không tranh luận thừa nhận việc truy tố, xét xử là không oan.

Các bị cáo nói lời sau cùng xin hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

- Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

- Về chứng cứ xác định hành vi phạm tội: Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã mô tả, các bị cáo xác định Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố là đúng người, đúng tội. Xét thấy lời nhận tội của các bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là tự nguyện, khách quan, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng, biên bản mở niêm phong vật chứng, biên bản cân xác định trọng lượng, Kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến và những chứng cứ, tài liệu thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định: Hồi 10 giờ 15 phút ngày 24/4/2019, tại tổ B, phường T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên, Ngô Đại D và Ngô Thế V đang có hành vi tàng trữ 0,112 gam Heroine do Ngô Đại D và Ngô Thế V cùng nhau đi mua về, mục đích cùng nhau sử dụng cho bản thân.

Như vậy, hành vi của các bị cáo Ngô Đại D và Ngô Thế V đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Hành vi phạm tội của các bị cáo vi phạm quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vân chuyển, sản xuất trai phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR -11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam…”.

Do vậy các bị cáo phải chịu hình phạt mà điều luật đã quy định.

- Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền về ma túy của nhà nước, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự của địa phương, ảnh hưởng đến sức khỏe, kinh tế của bản thân các bị cáo. Ngoài ra, hành vi của các bị cáo còn là nguyên nhân dẫn đến căn bệnh thế kỷ HIV – AIDS, đồng thời là nguyên nhân dẫn đến các tội phạm khác. Nên cần có hình phạt tương xứng với tội trạng của các bị cáo gây ra để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thấy: Bị cáo Ngô Thế V và Ngô Đại D không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy: Các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xét về nhân thân của các bị cáo thì thấy: Các bị cáo đều là người có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị xét xử, bị xử phạt vi phạm hành chính. Tuy nhiên các bị cáo đều không lấy đó làm bài học để rèn luyện, tu dưỡng bản thân mà tiếp tục phạm tội chứng tỏ các bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật kém.

Về vai trò của các bị cáo trong vụ án: Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn, bị cáo D và V đã thống nhất D là người bỏ tiền và hai bị cáo cùng nhau đi mua ma túy. Các bị cáo cùng có vai trò như nhau trong vụ án.

Căn cứ vào tính chất, mức độ tội phạm do các bị cáo thực hiện, sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân đối với các bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng các bị cáo là người nghiện ma túy, đã nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính, bị cáo D đã từng bị xét xử, có thời gian bị cải tạo trong trại giam tuy nhiên đã không chịu cai nghiện, không chịu lao động, không chịu rèn luyện điều đó chứng tỏ các bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật kém. Vì vậy, cần có một mức án nghiêm khắc để giáo dục các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Các bị cáo phạm tội không nhằm mục đích thu lời bất chính và qua xác minh thấy rằng các bị cáo không có tài sản riêng gì có giá trị do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát về hình phạt và các vấn đề khác đối với các bị cáo của là phù hợp.

Về xử lý vật chứng: Cần áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để xử lý các vật chứng sau:

Đối với vật chứng là 01 bì niêm phong kí hiệu A1 (Bì niêm phong chứa Heroine), do đó cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với các vật chứng là: 01 xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Vi va, màu xanh, BKS 29P-0041, chủ sở hữu là anh Chu Văn H nhưng anh H đã bán từ năm 2013, D đã mua lại chiếc xe trên của một người không quen biết và theo biên bản truy tìm vật chứng chiếc xe trên không có trong danh sách, do đó chiếc xe thuộc quyền quản lý sử dụng của Ngô Đại D; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, số Imei: 351750/06/811693/3 trong máy có gắn sim điện thoại Viettel; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell màu trắng, số Imei: 810023600016981, trong máy có gắn sim điện thoại Viettel. Đây là những tài sản liên quan đến việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

- Về những vấn đề khác:

Áp dụng Điều 329 Bộ luật TTHS năm 2015 tiếp tục tạm giam các bị cáo Ngô Đại D và Ngô Thế V thời hạn 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo việc thi hành án.

Án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm nộp sung quỹ Nhà nước, theo quy định của pháp luật.

Thông báo cho các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định.

Trong vụ án này có người bán ma túy cho bị cáo D và bị cáo V là người đàn ông nH không xác định được nhân thân lai lịch nên không có căn cứ xem xét xử lý.

Bởi các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điểm c khoản1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với các bị Ngô Đại D và Ngô Thế V.

Tuyên bố: Các bị cáo Ngô Đại D và Ngô Thế V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy"

Về hình phạt:

Xử phạt: Ngô Đại D 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/4/2019. Ngô Thế V 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/4/2019. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Áp dụng: Điều 329 bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Quyết định tạm giam các bị cáo Ngô Đại D và Ngô Thế V 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo việc thi hành án.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong kí hiệu A1, bên trong chứa ma túy.

Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Vi va, màu xanh, BKS 29P-004, số máy N114554, số khung B040114554, dung tích xilanh 110cm3 , tình trạng xe không có yếm, yên xe bị rách, nhiều bộ phận cũ rỉ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, số Imei: 351750/06/811693/3 kèm theo 01sim điện thoại Viettel; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell màu trắng, số Imei: 810023600016981, kèm theo 01 sim điện thoại Viettel.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng số 483 ngày 22/08/2019 giữa Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên).

Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí HSST sung quỹ Nhà nước.

Quyền kháng cáoCác bị cáo Ngô Đại D và Ngô Thế V được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

114
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 445/2019/HSST ngày 26/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:445/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về