Bản án 44/2021/HS-ST ngày 29/03/2021 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 44/2021/HS-ST NGÀY 29/03/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 3 năm 2021 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 41/2021/TLST- HS ngày 03 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:

- Cao Quốc A, sinh năm: 1995, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: đường C, phường N, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh; Chổ ở: Nhà không số, đường S, xã M, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc:kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cao Kim T và bà Đỗ Thị Minh T; Có vợ Trương Đình Tuệ M, sinh năm 2001 và có 01 con chung sinh năm 2019; tiền án: không; tiền sự: Không; Nhân thân: năm 2017 Cai nghiện bắt buộc tại địa phương; Tạm giữ , tạm giam : 17/10/2020; (Có mặt).

Bị hại: - Chị Mạc Thị H, sinh năm 2000; Trú tại: phường P, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh,(Vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Đỗ Thị Minh T, sinh năm 1966; Hộ khẩu thường trú: đường C, Phường N, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh; Chổ ở: Nhà không số, đường S, xã M, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh; (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền tiêu xài nên Cao Quốc A nảy sinh ý định đi cướp giật tài sản. Khoảng 8 giờ 30 phút ngày 17/10/2020 A hỏi mượn xe mô tô Honda AriBlade biển số 59T2-187.06 của bà Đỗ Thị Minh T (mẹ của A) để đi uống cà phê. A điều khiển xe mô tô Honda AriBlade biển số 59T2-187.06 lưu thông qua nhiều tuyến đường tìm người có tài sản để cướp giật bán lấy tiền tiêu xài. Đến 10 giờ cùng ngày, khi đi ngang nhà số C16 Lê Đức Thọ, phường 7, quận Gò Vấp (hướng từ Trần Thị Nghỉ lưu thông ra vòng xoay Lê Đức Thọ) thì phát hiện chị Mạc Thị H đang dừng, ngồi trên xe sát lề bên phải đường trên tay cầm chiếc điện thoại Iphone 6S Plus sử dụng. Lúc này, A điều khiển xe chạy vượt qua chỗ chị H đứng rồi quay xe lại đi ngược chiều về phía chị H, khi xe mô tô của A và xe mô tô của chị H song song nhau, A ép sát xe vào phía xe chị H dùng tay trái giật lấy chiếc điện thoại di động của chị H rồi tăng ga bỏ chạy, chị H truy hô và chạy bộ đuổi theo đến trước nhà số C14 Lê Đức Thọ, phường 7, quận Gò Vấp thì được người dân hỗ trợ bắt giữ được A đang bị ngã xe té xuống đường, sau đó giao A cho Công an phường 7 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Vật chứng vụ án:

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6s màu hồng số IMEI 359612071172167 thuộc sở hữu của chị Mạc Thị H. Căn cứ kết luận định giá tài sản số 61 ngày 22/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự Gò Vấp xác định điện thoại di động hiệu Iphone 6s màu hồng số IMEI 359612071172167, đã qua sử dụng – thời điểm định giá ngày 17/10/2020 có giá 2.233.333 đồng. Ngày 03/11/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Gò Vấp đã trả lại điện thoại trên cho bị hại chị Mạc Thị H.

- 01 (một) xe mô tô Honda AriBlade mang biển số 59T2-187.06 số khung RKHJF6310HZ031038, số máy JF63E-2184942. Qua điều tra xe mô tô trên là của bà Đỗ Thị Minh T đứng tên chủ sở hữu. Làm việc với bà Đỗ Thị Minh T là mẹ ruột của Cao Quốc A, sáng ngày 17/10/2020 Cao Quốc A nói mượn xe đi uống cà phê với bạn nên bà T giao xe trên cho A. Việc Cao Quốc A dùng xe để thực hiện hành vi “Cướp giật tài sản” vào ngày 17/10/2020 bà T không biết. Ngày 03/11/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Gò Vấp đã trả lại xe mô tô trên cho bà Đỗ Thị Minh T.

- 01 USB hiệu Kingstone màu xanh chứa clip ghi nhận quá trình Cao Quốc A thực hiện hành vi cướp giật tài sản.

Ngày 21/10/2020 chị Mạc Thị H có đơn yêu cầu Cao Quốc A bồi thường về thiệt hại tinh thần. Ngày 16/12/2020 bà Đỗ Thị Minh T (mẹ của Cao Quốc A) đã bồi thường thiệt hại tinh thần cho chị Mạc Thị H số tiền 2.000.000 đồng. Ngày 20/12/2020 chị Mạc Thị H có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho Cao Quốc A.

Tại bản cáo trạng số 47/CTr-VKS, ngày 28/02/2021 Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp truy tố Cao Quốc A về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự 2015 đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà hôm nay đại diện Viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử Đề nghị: Áp dụng điểm d khỏan 2 Điều 171; điểm s,b khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Cao Quốc A từ 03 năm đến 03 năm 6 tháng tù .

Miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

Tịch thu bổ sung chứng cứ hồ sơ 01 USB hiệu Kington màu xanh.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà hôm nay, sau khi Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp công bố bản cáo trạng thì Cao Quốc A đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, tang vật vụ án được thu giữ, phù hợp với kết luận điều tra của Công an quận Gò Vấp, với bản cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.

Đối chiếu với điều luật tương ứng do Bộ luật Hình sự quy định, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Cao Quốc A đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, giữa nơi công cộng đông người qua lại bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội bất chấp hậu quả xảy ra và bất chấp cả sự trừng trị của pháp luật. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật và Nhà nước bảo hộ, gây mất trật tự trị an xã hội và tác động xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Chỉ vì muốn có tiền để tiêu xài cho bản thân bị cáo đã thực hiện hành vi cướp giật tài sản của người khác rất táo bạo và liều lĩnh. Xét nhân thân bị cáo đã từng bị cai nghiện bắt buộc tại địa phương nên cần xem xét khi lượng hình, vì vậy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, nhằm giúp bị cáo sau này biết tôn trọng pháp luật và tôn trọng tài sản của người khác, tạo điều kiện cho bị cáo học tập cải tạo lại mình trở thành người công dân tốt hơn sau này có ích cho xã hội đồng thời cũng nhằm có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm chung. Do bị cáo sử dụng xe gắn máy là nguồn nguy hiểm cao độ để thực hiện hành vi phạm tội nên Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp truy tố bị cáo theo điểm d khỏan 2 Điều 171 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 là có cơ sở.

[3] Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét một số tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo: Tại cơ quan điều tra cũng như qua diễn biến phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thật thà khai báo, thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải, đã bồi thường tổn thất tinh thần cho bị hại, tài sản đã được thu hồi trả lại cho người bị hại, gia đình bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo, người bị hại đã có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[4] Về hình phạt bổ sung quy định tại 5 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của bị cáo Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên tòa hôm nay chị Mạc Thị H vắng mặt. Nhưng qua hồ sơ thể hiện chị H đã nhận lại tài sản và được bồi thường thiệt hại về tổn thất tinh thần hiện không thắc mắc khiếu nại gì, chị H xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ đến mức thấp nhất cho các bị cáo.

Đối với số tiền 2.000.000 đồng bà Đỗ Thị Minh T thay bị cáo bồi thường cho chị H, tại phiên tòa hôm nay bà T vắng mặt. Nhưng qua hồ sơ thể hiện bà không yêu cầu bị cáo trả lại và đồng ý cho luôn bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy đây là ý chí tự nguyện và không trái pháp luật nên ghi nhận.

[6] Về xử lý vật chứng:

Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 6s màu hồng qua xác minh thuộc sở hữu của chị Mạc Thị H Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị H. Hội đồng xét xử xét thấy việc trả lại tài sản đó là phù hợp với quy định của pháp luật và không ảnh hưởng đến nội dung vụ án nên tại phiên tòa hôm nay Hội đồng xét xử không đưa ra xem xét lại.

- Đối với chiếc xe xe mô tô Honda AriBlade mang biển số 59T2-187.06. Qua điều tra xe mô tô trên là của bà Đỗ Thị Minh T đứng tên chủ sở hữu. là mẹ ruột của Cao Quốc A, sáng ngày 17/10/2020 Cao Quốc A nói mượn xe đi uống cà phê với bạn nên bà T giao xe trên cho A. Việc Cao Quốc A dùng xe để thực hiện hành vi “Cướp giật tài sản” bà T không biết. Ngày 03/11/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Gò Vấp đã trả lại xe mô tô trên cho bà Đỗ Thị Minh T. Hội đồng xét xử xét thấy xe có nguồn gốc rõ ràng và việc trả lại xe đó là phù hợp với quy định của pháp luật và không ảnh hưởng đến nội dung vụ án nên tại phiên tòa hôm nay Hội đồng xét xử không đưa ra xem xét lại.

Đối với 01 USB hiệu Kington màu xanh ghi lại hành vi cướp giật tài sản của Cao Quốc A, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu bổ sung chứng cứ hồ sơ.

[7] Về án phí bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Cao Quốc A phạm tội “Cướp giật tài sản” .

Căn cứ điểm d khỏan 2 Điều 171; điểm s,b khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Cao Quốc A 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 17/10/2020.

Căn cứ Điều 46; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 và khoản 1, điểm a,c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu bổ sung chứng cứ hồ sơ 01 USB hiệu Kington màu xanh (đã bổ sung theo hồ sơ).

Áp dụng khỏan 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và Lệ phí, Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Bị cáo, có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008;

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2021/HS-ST ngày 29/03/2021 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:44/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về