Bản án 44/2021/HS-ST ngày 26/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ YÊN, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 44/2021/HS-ST NGÀY 26/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 4 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:53/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Cầm Văn Ng, sinh ngày 24 tháng 3 năm 1983 tại Phù Yên-Sơn La; nơi cư trú: bản Khoa 1, xã Tường Thượng, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): 03/12; dân tộc: Thái; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Cầm Văn Dương; con bà: Hà Thị Thắng; có vợ là: Hà Thị S, bị cáo có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2001, con nhỏ nhất sinh năm 2004; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: có sử dụng ma túy; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19 tháng 02 năm 2021 đến nay, “có mặt”.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Cầm Trọng Thủy, trợ giúp viên pháp lý Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La, “có mặt”.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: chị Hà Thị S, sinh năm 1983; nơi cư trú: bản Khoa 1, xã Tường Thượng, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La, “có mặt”.

- Người phiên dịch: ông Lò Văn Sơ, sinh năm 1964; chức vụ: nguyên Phó Chánh thanh tra - Ủy ban nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La, “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 19/02/2021, bị cáo Ng điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 26B2- 315.98 đi đến khu vực bản Tân Ba, xã Gia Phù, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La thì gặp người bạn tên “Cảnh”. Khi biết Ng có nhu cầu mua ma túy để sử dụng, Cảnh có giới thiệu cho Ng đến mua ma túy của một người đàn ông ở khu vực xã Tường Phong, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Theo chỉ dẫn của Cảnh, bị cáo Ng đến gặp và hỏi mua của người đàn ông lạ mặt được 2 gói ma túy với giá 400.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, bị cáo Ng cất giấu gói ma túy vào trong mũ bảo hiểm rồi đi về, khi đến khu vực bản Bùa Chung 1, xã Tường Phù thì bị Công an phát hiện bắt giữ.

Tại biên bản mở niêm phong, cân tịnh và lấy mẫu gửi giám định xác định (bút lục số 94): Vật chứng thu giữ của Cầm Văn Ng là 02 gói chất bột màu trắng có tổng khối lượng là 0,28 gam. Cơ quan điều tra đã lấy toàn bộ 0,28 gam (ký hiệu N1, N2) gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 496 ngày 24/02/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận (bút lục số 101): Mẫu gửi giám định ký hiệu N1, N2 là ma túy, loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là N1 = 0,19 gam, N2 = 0,09 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,28 gam, loại Heroine. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về Kết luận của Cơ quan điều tra và của Phòng kỹ thuật hình sự nêu trên.

Với những tình tiết như trên, tại Cáo trạng số: 33/CT – VKS - PY ngày 07/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La đã truy tố Cầm Văn Ng về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Cầm Văn Ng khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Kết thúc việc xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa trình bày luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố. Hành vi của bị cáo Cầm Văn Ng đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Cầm Văn Ng từ 21 đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Áp dụng điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 0,12 gam Heroine còn lại sau giám định; 02 mảnh giấy trắng có dòng kẻ, 01 phong bì niêm phong vật chứng khi bắt người phạm tội quả tang và 01 phong bì niêm phong mẫu vật chứng gửi giám định. Trả lại cho bà Hà Thị S 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirus, biển kiểm soát 26B2- 315.98 và 01 chiếc mũ bảo hiểm nhãn hiệu INDEX đã qua sử dụng.

Người bào chữa trình bày lời bào chữa cho bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến hoàn cảnh bị cáo là người dân tộc ít người, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, trình độ nhận thức pháp luật có nhiều hạn chế. Sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để quyết định mức đầu khung hình phạt. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Trong phần đối đáp, bị cáo Cầm Văn Ng nhất trí với quyết định truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là chị Hà Thị S xác nhận chiếc xe mô tô là tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình và là tài sản chung của gia đình. Ngày 19/02/2021, bị cáo Ng tự ý sử dụng chiếc xe và chiếc điện thoại di động làm phương tiện đi mua ma túy mà không được sự đồng ý của chị S. Chị S đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho chị được nhận lại chiếc xe và chiếc xe mô tô. Chị S không yêu cầu bị cáo bồi thường khoản tiền nào khác.

Kết thúc tranh luận, bị cáo nói sau cùng. Trong lời nói sau cùng, bị cáo có ý kiến đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Phù Yên, Điều tra viên và Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng quy định theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Cầm Văn Ng khai nhận hành vi cất giữ Heroine mục đích để sử dụng. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Tại các bản khai ngày 19/02/2021, 20/02/2021, 24/02/2021 và ngày 05/3/2021 (bút lục 51 đến 71), bị cáo Ng đều xác nhận việc gặp và mua 02 gói ma túy của người đàn ông lạ mặt, mục đích mua ma túy về để sử dụng, sau khi mua được ma túy, bị cáo cất giấu vào chiếc mũ bảo hiểm, trên đường về nhà thì bị Công an bắt giữ.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa cũng phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản thu giữ vật chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Theo tinh thần tiểu mục 3.1, mục 3, phần II của Thông tư liên tịch số: 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp thì “Tàng trữ trái phép chất ma túy là cất giữ, cất giấu bất hợp pháp chất ma túy ở bất cứ nơi nào (như trong nhà, ngoài vườn, chôn dưới đất, để trong vali, cho vào thùng xăng xe, cất giấu trong quần áo, tư trang mặc trên người hoặc theo người…) mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không ảnh hưởng đến việc xác định tội này”.

Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự thì “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”.

Kết quả cân tịnh và giám định vật chứng xác định: Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,28gam, loại Heroine. Như vậy, hành vi cất giữ trái phép 0,28 gam Heroine nhằm mục đích để sử dụng của Cầm Văn Ng đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nhân thân người phạm tội và về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[3.1] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hại lớn cho xã hội, được quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự với khung hình phạt từ 1 đến 5 năm tù. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách quản lý các chất ma túy của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.

Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo nhận thức được việc “Tàng trữ trái phép chất ma túy” bị pháp luật nghiêm cấm nhưng để thỏa mãn cơn nghiện ma túy, bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật, cố ý phạm tội.

[3.2] Về nhân thân, Bị cáo là người dân tộc ít người, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế- văn hóa xã hội khó khăn; trình độ học vấn thấp, nhận thức pháp luật có phần hạn chế. Bản thân có sử dụng ma túy (bút lục 82).

[3.3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Từ việc đánh giá những căn cứ quyết định hình phạt trên, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo với mức hình phạt tương xứng với tính chất hành vi phạm tội.

[5] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng,…” do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo làm nghề lao động tự do, thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế gia đình còn khó khăn (bút lục số 146) cho nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp:

[6.1] Đối với 0,12 gam Heroine còn lại sau giám định; 02 mảnh giấy trắng có dòng kẻ, 01 phong bì niêm phong vật chứng khi bắt người phạm tội quả tang và 01 phong bì niêm phong mẫu vật chứng gửi giám định; 01 chiếc mũ bảo hiểm nhãn hiệu INDEX đã qua sử dụng, xác định là vật chứng nhà nước cấm tàng trữ, vật không có giá trị. Căn cứ điểm a, c khoản khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định.

[6.2] Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirus, biển kiểm soát 26B2- 315.98, xác định là tài sản chung và là phương tiện giao thông duy nhất của vợ chồng bị cáo và vợ là chị Hà Thị S. Bị cáo tự ý sử dụng chiếc xe mô tô của gia đình đi mua ma túy. Chị S không có lỗi trong việc để bị cáo sử dụng tài sản vào việc thực hiện hành vi phạm tội. Căn cứ khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử cần trả lại chiếc xe mô tô cho chị S.

[7] Đối với người đàn ông tên “Cảnh” đã giới thiệu việc mua bán ma túy cũng như người đàn ông lạ mặt đã bán ma túy cho bị cáo Ng. Bị cáo Ng không biết họ tên, địa chỉ cụ thể của người đàn ông đó ở đâu. Việc mua bán ma túy không có ai khác biết sự việc. Ngoài lời khai của bị cáo, không còn chứng cứ nào khác chứng minh hành vi mua bán ma túy. Do đó, Cơ quan điều tra không có đủ căn cứ để xử lý.

[8] Về biện pháp ngăn chặn, do đến ngày xét xử, thời hạn tạm giam đối với bị cáo đã hết nên Hội đồng xét xử cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo việc thi hành án.

[9] Về án phí, Bị cáo là cá nhân thuộc hộ cận nghèo, căn cứ quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, Bị cáo được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ Luật Hình sự;

Căn cứ điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; các điểm a, c khoản 2 của Bộ Luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

điểm đ khoản 1 Điều 12; điểm a khoản 1 Điều 23; các Điều 14, 15 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

1. Tuyên bố: Bị cáo Cầm Văn Ng phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Cầm Văn Ng 21 (hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19 tháng 02 năm 2021 (ngày bị cáo bị bắt, tạm giữ). Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp:

Tịch thu tiêu hủy 0,12 gam Heroine còn lại sau giám định; 02 mảnh giấy trắng có dòng kẻ, 01 phong bì niêm phong vật chứng khi bắt người phạm tội quả tang và 01 phong bì niêm phong mẫu vật chứng gửi giám định(đựng trong phong bì đã niêm phong); 01 chiếc mũ bảo hiểm nhãn hiệu INDEX đã qua sử dụng.

Trả lại cho bà Hà Thị S 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirus, biển kiểm soát 26B2- 315.98 số máy E3X9E030429, số khung 3240GY011381.

3. Về án phí: Bị cáo Cầm Văn Ng được miễn nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (26/4/2021). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

131
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2021/HS-ST ngày 26/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:44/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Yên - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về