Bản án 44/2021/HS-ST ngày 04/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PLEIKU, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 44/2021/HS-ST NGÀY 04/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Trong ngày 04/5/2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 43/2021/TLST-HS ngày 31/3/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2021/QĐXXST-HS ngày 19/4/2021 đối với bị cáo:

Trần Minh T- sinh năm 1990 tại Quảng Ngãi;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: số ...đường Nguyễn Chí Thanh, tổ A, phường Thắng Lợi, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai;

Nghề nghiệp: thợ hàn; trình độ văn hóa (học vấn): 3/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Minh L và bà Nguyễn Thị Thu T; bị cáo có vợ tên Lê Thị Diễm Q (đã ly hôn) và có 01 người con sinh năm 2014 (hiện ở với chị Quyên).

Tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân: Tại bản án số 167/HSST ngày 21/11/2011 Tòa án nhân dân thành phố Pleiku xử phạt 24 tháng tù về tội “Cướp tài sản’’ theo quy định tại khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1999; chấp hành xong hình phạt ngày 19/4/2013;

Tại bản án hình sự số 15/HSST ngày 22/5/2015 Tòa án nhân dân huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 24 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có’’ theo quy định tại khoản 1 điều 250 Bộ luật Hình sự năm 1999;

Tại bản án số 130/HSST ngày 23/9/2015 Tòa án nhân dân thành phố Pleiku xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản’’ theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999.

(Tất cả các lần phạm tội này đều được xóa án tích).

Bị cáo Trần Minh T bị tạm giữ từ ngày 22/12/2020, sau đó bị áp dụng biện pháp tạm giam cho đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Gia Lai (có mặt).

Người tham gia tố tụng khác:

Người chứng kiến:

Ông Hoàng Văn Nh; địa chỉ: tổ B, phường Phù Đổng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Minh T là người có sử dụng ma túy và có số điện thoại của nam thanh niên tên Th (không xác định được nhân thân, địa chỉ) là người bán ma túy. Trưa ngày 22/12/2020, T gọi điện thoại cho Th hỏi mua ma túy đá với giá 200.000 đồng để sử dụng, Th đồng ý và hẹn T đến trước tiệm vàng Xuyên ở khu vực ngã ba Diệp Kính, phường Hội Thương, thành phố Pleiku để thực hiện việc mua bán. Khoảng 13 giờ cùng ngày, T đi đến địa chỉ trên gặp Th và đưa cho Th 200.000 đồng và nhận 01 đoạn ống nhựa, hai đầu được hàn kín, bên trong chứa chất ma túy. Sau đó, T cất giấu vào trong túi quần rồi đi bộ theo đường Hùng Vương để tìm thuê xe ôm đi về nhà. Đến khoảng 13 giờ 15 phút cùng ngày, khi đi bộ đến khu vực ngã tư đường Hùng Vương giao nhau đường Nguyễn Viết Xuân thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku phối hợp với Công an phường Phù Đổng phát hiện bắt quả tang; thu giữ trong túi quần của T đang mặc 01 đoạn ống nhựa màu đen, bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (được niêm phong theo quy định) và 01 điện thoại di động hiệu Vsmart, kèm sim có dãy số: 84011.81225.23800 WP.

Tại bản Kết luận giám định số 24/KLGĐ ngày 30/12/2020, của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai, kết luận: “Chất màu trắng dạng tinh thể trong 01 đoạn ống hút nhựa (hàn kín hai đầu) trong bì công văn niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,1734 gam”.

Đối với chất ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định, trong 01 bì công văn ghi số 24/PC09 ngày 31 tháng 12 năm 2020, có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku chuyển theo vụ án để xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 51/CT – VKS ngày 31/3/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai đã truy tố Trần Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku đề nghị Hội đồng xét xử kết tội bị cáo Trần Minh T theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; các Điều 38, 50; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt Trần Minh T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về hình phạt bổ sung: Không đề nghị áp dụng vì xác định được bị cáo không có thu nhập và tài sản riêng.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu bán đấu giá sung quỹ nhà nước 01 chiếc điện thoại di động hiệu Vsamrt kèm sim số.

Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 bì công văn ghi số 24/PC09 ngày 30/12/2020, có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định, hành vi tố tụng: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Các quyết định, hành vi tố tụng của Điều tra viên, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Minh T khai nhận hành vi đúng như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, cụ thể:

Vào khoảng 13 giờ, ngày 22/12/2020, Trần Minh T đi bộ đến khu vực ngã ba Diệp Kính (đoạn vòng xoay), phường Hội Thương, thành phố Pleiku mua 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng của 01 người đàn ông tên Th (không xác định được nhân thân, lai lịch). Sau khi mua được ma túy, bị cáo mang cất giấu trong túi quần rồi đi bộ xuống đường Hùng Vương, hướng về cầu Hội Phú. Khi đi đến đoạn ngã tư đường Hùng Vương giao nhau với đường Nguyễn Viết Xuân thì bị bắt quả tang cùng các tang vật, gồm: 01 gói ma túy, 01 điện thoại di động nhãn Vsamrt kèm sim số.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 22/12/2020, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án cũng như phù hợp với Bản kết luận giám định số 24/KLGĐ ngày 30/112/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Gia Lai. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Trần Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, đúng như cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku đã truy tố.

[3] Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho Trần Minh T là “Người phạm tội thành khẩn khai báo’’ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Hội đồng xét xử thấy rằng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị nêu trên là có căn cứ nên chấp nhận. Đồng thời nhận thấy hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội; tuy các lần phạm tội của bị cáo trước đây đều đã được xóa án tích, nhưng bản thân bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị xử phạt tù song vẫn không tiến bộ, vì vậy, khi quyết định hình phạt cần xem xét xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc để nhằm răn đe, giáo dục và cải tạo người phạm tội.

[5] Xét, bị cáo không có thu nhập ổn định, cũng như không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền.

[6] Đối với đối tượng tên Th là người bán ma túy cho T, do không xác định được nhân thân, lai lịch nên chưa có căn cứ để xử lý.

[7] Về xử lý vật chứng: Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ theo đề nghị của Kiểm sát viên nêu trên.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38, Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Trần Minh T 02 (hai ) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 22/12/2020.

- Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Xử: Tịch thu bán đấu giá sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động hiệu Vsamrt kèm sim số.

Tịch thu tiêu hủy: 01 bì công văn ghi số 24/PC09 ngày 30/12/2020, có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 04/5/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Pleiku).

- Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí lệ, phí Tòa án;

Buộc bị cáo Trần Minh T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền làm đơn kháng cáo bản án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b, 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2021/HS-ST ngày 04/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:44/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về