TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 44/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG
Ngày 27 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 761/2020/TLST- HNGĐ ngày 05 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 53/2020/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 4 năm 2021, giữa:
1. Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Mỹ H, sinh năm 1994. HKTT: Ấp T, xã M, huyện B, tỉnh Đồng Nai Nơi ở hiện nay: Đường 73, hẻm 10, ấp N, xã M, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Trung K, sinh năm 1992. HKTT: Ấp T, xã M, huyện B, tỉnh Đồng Nai.
Địa chỉ: Số nhà 26, đường 7, Ấp T, xã M, huyện B, tỉnh Đồng Nai. (Bà H, ông K vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Tại đơn khởi kiện đề ngày 25/9/2020, tại bản tự khai nguyên đơn bà Phạm Thị Mỹ H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Nguyễn Trung K tự nguyện kết hôn và đăng ký kết hôn vào năm 2014 tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện B. Quá trình chung sống vợ chồng không hạnh phúc do ông K có nhiều lần uống rượu say chửi, đánh bà, và có lúc có hiện tượng ngáo đá vào nhà mẹ ruột bà phá, đánh mẹ bà bể đầu và đe dọa giết bà nên vợ chồng không thể nào hàn gắn được. Nên bà yêu cầu xin được ly hôn với ông Nguyễn Trung K.
Về con chung: Có 01 con chung là cháu H1, sinh ngày 07/03/2016. Khi ly hôn bà xin được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cháu H1, không yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Không có.
Quá trình thụ lý và giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý; giấy triệu tập; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cho ông Nguyễn Trung K nhưng ông Nguyễn Trung K vắng mặt không có lý do nên không có lời khai.
Ý kiến đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được thực hiện đúng quy định. Bị đơn đã được Tòa triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt.
- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà H về việc ly hôn với ông K. Giao cháu H1 cho bà Phạm Thị Mỹ H trực tiếp nuôi dưỡng, tạm thời ông Nguyễn Trung K không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, bà H trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Bà H trình bày không có. Về án phí: bà Phạm Thị Mỹ H phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Bà Phạm Thị Mỹ H có đơn xin xét xử vắng mặt. Tòa án đã tống đạt hợp lệ giấy triệu tập; Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; Thông báo về việc thu thập được tài liệu, chứng cứ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa theo quy định của pháp luật cho ông Nguyễn Trung K nhưng ông Nguyễn Trung K vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn theo quy định tại Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị Mỹ H và ông Nguyễn Trung K kết hôn trên cơ sở tự nguyện và đã được Ủy ban nhân dân xã M, huyện B, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn số: 114/2014 ngày 12/8/2014 nên áp dụng Điều 9, 11, 12 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 xác định là hôn nhân hợp pháp.
Xét yêu cầu xin ly hôn của bà H, Hội đồng xét xử xét thấy: Theo bà H trình bày quá trình chung sống vợ chồng không hạnh phúc do ông K có nhiều lần uống rượu say chửi, đánh bà, và có lúc có hiện tượng ngáo đá vào nhà mẹ ruột bà phá, đánh mẹ bà bể đầu và đe dọa giết bà nên vợ chồng không thể nào hàn gắn được.
Nên bà yêu cầu xin được ly hôn với ông Nguyễn Trung K. Qua xác minh tại địa phương ngày 18/12/2020, thì ông Nguyễn Trung K có hộ khẩu thường trú và sinh sống tại Ấp T, xã M, huyện B, tỉnh Đồng Nai. Ngoài ra địa phương không nắm rõ mâu thuẫn gia đình của bà H và ông K do ông bà không yêu cầu hòa giải tại địa phương. Tuy nhiên, Tòa án cũng đã tiến hành triệu tập ông Nguyễn Trung K đến Tòa để hòa giải đoàn tụ nhưng ông Nguyễn Trung K không đến, cho thấy ông Nguyễn Trung K không muốn níu kéo cuộc hôn nhân này. Xét thấy, bà H và ông K đã không còn tình cảm, vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau, không có khả năng hàn gắn đoàn tụ nên việc bà Phạm Thị Mỹ H xin ly hôn với ông Nguyễn Trung K là có cơ sở chấp nhận. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 51 và Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Mỹ H, bà Phạm Thị Mỹ H được ly hôn với ông Nguyễn Trung K.
[3] Về con chung: Bà H và ông K có 01 con chung là cháu H1, sinh ngày 07/03/2016. Khi ly hôn, bà Phạm Thị Mỹ H xin được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông Nguyễn Trung K cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy việc nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là trách nhiệm của cha mẹ. Khi ly hôn bà Phạm Thị Mỹ H xin được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông Nguyễn Trung K cấp dưỡng nuôi con. Ông Nguyễn Trung K đã được triệu tập hợp lệ nhưng không đến Tòa làm việc nên không có ý kiến gì về con chung, do đó để đảm bảo cuộc sống ổn định cho cháu H1 nên giao cháu H1 cho bà Phạm Thị Mỹ H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng để tạo điều kiện ổn định phát triển về mọi mặt cho cháu H1. Tạm thời ông K không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.
[4]Về tài sản chung: Bà Phạm Thị Mỹ H trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do bị đơn vắng mặt chưa có lời khai về tài sản chung, nên không đặt ra xem xét mà tách ra giải quyết bằng vụ án khác khi đương sự có yêu cầu.
[5]Về nợ chung: Bà Phạm Thị Mỹ H trình bày không có. Do bị đơn vắng mặt chưa có lời khai về nợ chung, nên không đặt ra xem xét mà tách ra giải quyết bằng vụ án khác khi đương sự có yêu cầu.
[6] Về án phí: Bà H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
[7] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom tại phiên tòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 203, Điều 220, Điều 238, Điều 266, Điều 273 Bộ Luật tố tụng dân sự; Điều 9, Điều 11, Điều 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Mỹ H.
Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị Mỹ H được ly hôn với ông Nguyễn Trung K.
Về con chung: Giao cháu H1, sinh ngày 07/03/2016 cho bà Phạm Thị Mỹ H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời ông Nguyễn Trung K không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.
Không ai được cản trở quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con chung của ông Nguyễn Trung K.
Vì quyền lợi của con chung, các đương sự có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung: Bà Phạm Thị Mỹ H trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do bị đơn vắng mặt chưa có lời khai về tài sản chung, nên không đặt ra xem xét mà tách ra giải quyết bằng vụ án khác khi đương sự có yêu cầu.
Về nợ chung: Bà Phạm Thị Mỹ H trình bày không có. Do bị đơn vắng mặt chưa có lời khai về nợ chung, nên không đặt ra xem xét mà tách ra giải quyết bằng vụ án khác khi đương sự có yêu cầu.
Về án phí: Bà Phạm Thị Mỹ H phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0005779 ngày 01/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bom. Bà Phạm Thị Mỹ H đã nộp đủ án phí.
Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 44/2021/HNGĐ-ST ngày 27/04/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung
Số hiệu: | 44/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về