TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỊNH QUÁN, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 44/2021/HNGĐ-ST NGÀY 11/05/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 11 tháng 5 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 544/2020/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 12 năm 2020 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 4 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 60/2021/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Võ Thị G – sinh năm: 1984.
Địa chỉ: Số nhà 74, tổ 9, khu phố HL, thị trấn ĐQ, huyện ĐQ, tỉnh Đồng Nai.
Bị đơn: Anh Trần Phúc V – sinh năm: 1991.
Địa chỉ: Khu 6, ấp SS 1, xã PV, huyện ĐQ, tỉnh Đồng Nai.
(chị G có đơn xin xét xử vắng mặt, anh V vắng mặt không có lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Quá trình tham gia tố tung tại Tòa án, nguyên đơn chị Võ Thị G trình bày:
Chị và anh Trần Phúc V tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2015 và được Ủy ban nhân dân xã PV cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 11/11/2015. Cuộc sống chung vợ chồng hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh V có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, không quan tâm đến gia đình. Do đó trong cuộc sống chung vợ chồng không hạnh phúc, thường xuyên cãi vã nhau. Thậm chí anh V còn đánh đập chị. Từ tháng 6/2017, vợ chồng sống ly thân nhau cho đến nay. Do tình cảm không còn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Trần Phúc V.
Về con chung: Chị và anh V có 01 con chung là Trần Võ Phúc K – sinh ngày: 07/01/2019.
Từ khi chị và anh V ly thân nhau đến nay, con chung sống cùng chị.
Khi ly hôn, chị yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.
Đối với anh Trần Phúc V: Mặc dù khi thụ lý và tiến hành các hoạt động tố tụng, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và Giấy triệu tập anh V đến Tòa án làm việc nhưng anh V không đến Tòa án để thể hiện nguyện vọng của mình.
Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Võ Thị G đã giao nộp những tài liệu, chứng cứ sau: CMND của chị G và anh V (bản sao); Sổ hộ khẩu của chị G và anh V (bản sao); Giấy chứng nhận kết hôn (bản chính); Giấy khai sinh của con chung (bản sao); Bản tự khai ngày 30/12/2020 của chị G (bản chính); Phiếu lương tháng 10,11,12/2020 của chị G (bản chính); Đơn xin vắng mặt ngày 09/4/2021 của chị G (bản chính). Để giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ sau: 03 Biên bản xác minh ngày 22/3/2021.
Các tài liệu, chứng cứ này Tòa án đã ra thông báo cho các bên đương sự biết đồng thời tiến hành mở phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải và ra thông báo kết quả về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho những người vắng mặt theo đúng quy định của pháp luật.
Ý kiến của Kiểm sát viên:
- Về việc tuân theo pháp luật: Từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm trước khi nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Do nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là đúng quy định pháp luật.
- Về nội dung vụ án:
+ Về quan hệ hôn nhân: Xét vợ chồng chị G và anh V đã xảy ra mâu thuẫn, không hòa giải đoàn tụ được. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của chị G, cho chị Võ Thị G được ly hôn với anh Trần Phúc V.
+ Về con chung: Đề nghị giao 01 con chung là Trần Võ Phúc K – sinh ngày: 07/01/2019 cho chị Võ Thị G trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm thời anh Trần Phúc V không phải cấp dưỡng nuôi con do chị G không yêu cầu.
+ Về tài sản chung, nợ chung: Chị G kê khai không có, không yêu cầu giải quyết. Hiện nay vắng mặt anh V nên chưa điều tra, làm rõ được, vì vậy đề nghị tách ra giải quyết bằng vụ án khác khi phát sinh tranh chấp.
+ Về án phí: Đề nghị buộc chị Võ Thị G phải chịu 300.000đ án phí DSST về ly hôn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về áp dụng pháp luật tố tụng:
[1.1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn chị Võ Thị G khởi kiện yêu cầu ly hôn, giải quyết về việc nuôi dưỡng con chung đối với bị đơn anh Trần Phúc V. Anh V đang cư trú tại huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định quan hệ tranh chấp trong vụ kiện này là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai.
[1.2]. Chị Võ Thị G và anh Trần Phúc V là các đương sự trong vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ đến Tòa án để tham gia phiên tòa nhưng chị G có đơn xin xét xử vắng mặt, anh V vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Vì vậy căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án tiến hành mở phiên tòa xét xử vắng mặt các đương sự.
[2]. Về áp dụng pháp luật nội dung: Chị G và anh V kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã PV vào ngày 11/11/2015. Nay chị G yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn với anh V thì Tòa án áp dụng các Điều 9, 51, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết.
[3]. Về nội dung yêu cầu khởi kiện:
[3.1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị G và anh V tự nguyện sống chung với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã PV vào ngày 11/11/2015. Như vậy hôn nhân của anh chị là hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Quá trình chung sống vợ chồng anh chị sống hòa thuận, hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Chị G trình bày chị yêu cầu ly hôn vì anh V có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, không quan tâm đến gia đình.
Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã nhiều lần tiến hành triệu tập anh V đến Tòa án để hòa giải nhưng anh V không đến để làm việc. Điều này thể hiện ý chí của anh V không muốn hàn gắn, đoàn tụ. Đồng thời qua xác minh tại địa phương thể hiện đời sống chung của vợ chồng anh chị không hạnh phúc và đã sống ly thân nhau (bút lục 34 – 36).
Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã phát sinh kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy để chị G có điều kiện ổn định cuộc sống của mình nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị G là cho chị được ly hôn với anh V là đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
[3.2]. Về con chung: Chị G và anh V có 01 con chung là Trần Võ Phúc K – sinh ngày: 07/01/2019.
Chị G yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, bản thân chị G có đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Hơn nữa, từ khi chị G và anh V sống ly thân đến nay, con chung sống cùng chị G. Vì vậy để tránh xáo trộn cuộc sống của con chung nên tiếp tục giao cháu Trần Võ Phúc K cho chị G trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.
Về cấp dưỡng nuôi con: Tạm thời anh V không phải cấp dưỡng nuôi con do chị G không yêu cầu.
Khi nào có tranh chấp về việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con sẽ giải quyết bằng vụ án khác.
[3.3]. Về tài sản chung, nợ chung: Chị G kê khai không có, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết. Hiện nay vắng mặt anh V nên chưa điều tra, làm rõ được, vì vậy sẽ giải quyết bằng vụ án khác khi phát sinh tranh chấp.
[4]. Về án phí: Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì chị Võ Thị G phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí DSST về ly hôn.
[5]. Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, do đó được chấp nhận.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ:
- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228, Điều 235 của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Các Điều 9, 51, 56, 58, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Võ Thị G.
Cho chị Võ Thị G được ly hôn anh Trần Phúc V.
2. Về con chung: Chị G và anh V có 01 con chung là Trần Võ Phúc K – sinh ngày: 07/01/2019.
Chị Võ Thị G trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Tạm thời anh Trần Phúc V không phải cấp dưỡng nuôi con. Anh V có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được gây trở ngại. Vì lợi ích của con chung các bên đương sự được quyền xin thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.
Khi nào có tranh chấp về việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con sẽ giải quyết bằng vụ án khác.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Tách ra giải quyết bằng vụ án khác khi phát sinh tranh chấp.
4. Về án phí: Chị Võ Thị G phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí DSST về ly hôn. Số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị G đã nộp tạm ứng án phí tại biên lai thu số 0005587 ngày 17 tháng 12 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai chuyển thành án phí.
5. Quyền kháng cáo: Chị G và anh V có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
6. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 44/2021/HNGĐ-ST ngày 11/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 44/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Định Quán - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 11/05/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về