Bản án 44/2020/HS-ST ngày 29/04/2020 về tội gây rối trật tự công cộng

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 44/2020/HS-ST NGÀY 29/04/2020 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Ngày 29 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Ninh Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 22/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 02 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 4 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Trần Đức T (Tên gọi khác: Không), sinh năm 1981 tại Ninh Bình; nơi cư trú: Số nhà M, đường BĐ, phố TS, phường BĐ, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn C và bà Trịnh Thị D; Vợ: Bùi Thị Lan A và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 23/12/2019 cho đến nay. “Có mặt”.

2. Nguyễn Đức G (tên gọi khác: không), sinh năm 1984 tại tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: Số nhà H, phố TL, phường NS, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức C và bà Dương Thị V; vợ: Nguyễn Thị T (đã ly hôn) và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân:

+ Tại bản án số 73/HSST ngày 9/12/2002 Tòa án nhân dân thị xã Ninh Bình xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo thời gian thử thách 12 tháng về tội Trộm cắp tài sản.

+ Tại bản án số 102/2005/HSST ngày 10/5/2005 Tòa án nhân dân thị xã Ninh Bình xử phạt 06 tháng tù về tội Tàng trữ hàng cấm.

+ Ngày 27/02/2007 Công an thị xã Ninh Bình ra quyết định đình chỉ điều tra số 01 đối với Nguyễn Đức G về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

+ Tại bản án số 78/2009/HSST ngày 8/7/2009 Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình xử phạt 30 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

+ Tại bản án số 21/2011/HSST ngày 18/8/2011 Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình xử phạt 42 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Tại bản án số 19/2011/HSPT ngày 20/10/2011 Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình sửa bản án sơ thẩm số 21 ngày 18/8/2011 của Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh về hình phạt tù, xử phạt G 30 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

Bị cáo bị bắt tạm giam tại trại Tạm giam công an tỉnh Ninh Bình từ ngày 02/11/2019, đến ngày 22/01/2020 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh đến ngày 19/02/2020 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú . “Có mặt”.

3. Nguyễn Văn L (Tên gọi khác: Không), sinh năm 1993 tại Ninh Bình; Nơi cư trú: Thôn HM, xã GT, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn N và bà Nguyễn Thị H; vợ, con: Chưa có ; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

+ Ngày 08/8/2014, công an huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình ra quyết định xử phạt hành chính 750.000 đồng về hành vi “ Gây rối trật tự công cộng”.

+ Ngày 04/04/2016, công an huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 500.000 đồng về hành vi “ Sử dụng trái phép chất ma túy”

+ Ngày 04/5/2016 công an huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi “ Trộm cắp tài sản”.

+ Ngày 04/10/2016 công an thành phố Ninh Bình ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 3.000.000 đồng về hành vi “tàng trữ trái phép công cụ hỗ trợ”.

Bị cáo bị bắt tạm giam tại trại Tạm giam công an tỉnh Ninh Bình từ ngày 02/11/2019 cho đến nay. “Có mặt”.

4. Lê Xuân O (Tên gọi khác: Không), sinh năm 1994 tại Ninh Bình; nơi cư trú: Thôn TT, xã NG, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn G và bà Bùi Thị Thu H; Vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại bản án số 32/2013/HSST ngày 26/9/2013 Tòa án nhân dân huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; Bị cáo bị bắt tạm giam tại trại Tạm giam công an tỉnh Ninh Bình từ ngày 02/11/2019 cho đến nay. “Có mặt”.

5. Nguyễn Minh K (Tên gọi khác: Không), sinh năm 1986 tại Ninh Bình; nơi cư trú: Số nhà M, ngõ B, đường PND, phố NT, phường NS, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Lê Thị N; Vợ: Trần Thị L (Đã ly hôn) và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam tại trại Tạm giam công an tỉnh Ninh Bình từ ngày 02/11/2019 cho đến nay. “Có mặt”.

6. Nguyễn Văn U (Tên gọi khác: Không), sinh năm 1990 tại Ninh Bình; nơi cư trú: Phố TL, phường NS, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức C và bà Dương Thị V; Vợ: Nguyễn Thị Kiều O và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “ Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 23/12/2019 cho đến nay. “Có mặt”.

7. Nguyễn Việt I (Tên gọi khác: Không), sinh năm 1990 tại Ninh Bình; nơi cư trú: Số nhà K, đường PND, phố BT, phường NS, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị N; Vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 16/8/2017, công an thành phố Ninh Bình ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 750.000 đồng về hành vi ném gạch đất đá vào tài sản của người khác; Bị cáo bị bắt tạm giam tại trại Tạm giam công an tỉnh Ninh Bình từ ngày 02/11/2019 cho đến nay. “Có mặt”.

8. Phạm Quang R (Tên gọi khác: Không), sinh năm 1977 tại Ninh Bình; nơi cư trú: Số nhà B, ngõ T, đường ĐĐ, phố HP, phường NK, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Qúy Đ và bà Nguyễn Thị C; Vợ: Đinh Thị H (đã ly hôn) và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “ Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 02/11/2019 cho đến nay. “Có mặt”.

Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Lê Minh H sinh năm 1983; trú tại: phố TS, phường BĐ, thành phố Ninh Bình. “Vắng mặt”.

Ngưi làm chứng: Anh Hoàng Huy J, chị Vũ Thị Thu A, chị Nguyễn Thị Ê, chị Hà Thị Thu B, anh Phạm Văn C, anh Lê Minh H, anh Lê Đức I, anh Phạm Đức X, anh Trần Văn V, anh Trần Quang Y, anh Nguyễn Văn Q, chị Vũ Thị Thanh S, anh Bùi Văn F, anh Bùi Mạnh P. “Vắng mặt ”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 01/10/2019 Nguyễn Đức G cùng Nguyễn Văn U (là em trai) và các bạn là Nguyễn Việt I; Nguyễn Minh K; Nguyễn Văn L; Lê Xuân O; Phạm Quang R; Trần Văn V sinh năm 1988, trú tại phố NT, phường NS, thành phố Ninh Bình; Phạm Văn C sinh năm 1991, trú tại phố BĐ, phường NS, thành phố Ninh Bình; Hà Thị Thu B sinh năm 1978 trú tại phố M, phường NK, thành phố Ninh Bình; Nguyễn Thị Ê sinh năm 1983, trú tại Thị trấn YT, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình; Vũ Thị Thu A sinh năm 1991, Hoàng Huy J sinh năm 1986, đều trú tại phường NB, thành phố Ninh Bình và một nam thanh niên tên Z (chưa xác định nhân thân lai lịch) hát karaoke, uống bia tại tại phòng số 5 tầng 2 quán Karaoke PĐ thuộc phố TS, phường BĐ, thành phố Ninh Bình do anh Lê Minh H sinh năm 1983 làm chủ. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, nhóm của anh Trần Đức T sinh năm 1981, cùng Nguyễn Văn Q sinh năm 1978; Trần Quang Y sinh năm 1977; Lê Đức I sinh năm 1979; Phạm Đức X sinh năm 1979 đều trú tại phố TS, phường BĐ, thành phố Ninh Bình đến quán karaoke PĐ hát, uống bia tại phòng số 1 tầng 1. Khoảng 22 giờ cùng ngày, Nguyễn Đức G, Nguyễn Văn L, Vũ Thị Thu A, Nguyễn Thị Ê, Hoàng Huy J nghỉ không hát nữa và ra đi về trước, cùng lúc đó nhóm của Trần Đức T cũng nghỉ ra về. Khi G cùng chị Ê đi ở hành lang tầng 1 từ trong quán hát ra ngoài phòng lễ tân thì gặp Trần Đức T đi từ ngoài vào trong, do hành lang hẹp nên T và G va chạm với nhau. Sau đó G và T xảy ra cãi chửi nhau, G đưa tay lên chặn ngang đường hành lang tầng một quán hát không cho T đi qua. T bực tức, đưa tay lên giật tay G, hất người G sang một bên. Sau đó G quay lưng bỏ chạy, T đưa chân phải lên đạp về phía lưng G 01 phát nhưng không trúng, rồi T tiếp tục đuổi theo G được khoảng 3 mét và đưa chân lên đạp vào người G thì bị trượt chân ngã. Lúc này, Nguyễn Văn L đang đi vào hành lang tầng một quán hát thấy G đang bị T đuổi đánh. G nhìn thấy L thì đưa tay kéo L lại, L cùng G lao vào dùng chân tay đấm đá nhiều cái vào người T. Cùng lúc đó, J đang đứng tại hành lang quán hát thấy G và L đánh nhau với T nên chạy lên tầng hai của quán hát thì gặp Nguyễn Minh K, Phạm Văn C, Lê Xuân O, Phạm Quang R, Nguyễn Việt I, Nguyễn Văn U, Trần Văn V, Hà Thị Thu B và nam thanh niên tên Z, J nói “Anh G đang bị đánh ở dưới” sau đó cả nhóm chạy xuống. Lúc này K và O mỗi người cầm 01 chiếc điếu cày bằng tre, U cầm 01 chai bia chạy xuống hành lang quán hát. Thấy Trần Đức T bị đánh, anh Lê Đức I cùng anh Q chạy vào can ngăn kéo G và L ra thì L quay ra giằng co dùng tay, chân, đấm, đạp vào mặt và người anh Lê Đức I, L dùng đầu mình húc vào chán anh Lê Đức I và lấy 01 chai bia để trong két bia để ở góc nhà đập vào đầu anh Lê Đức I. Lúc này, G thấy anh Q can ngăn liền dùng tay phải đấm 01 cái vào má trái anh Q làm anh Q sợ hãi đứng nép vào tường, G túm cổ áo anh T lôi dậy, đẩy anh T ra ngoài phòng khách. Lúc này nhóm bạn G từ tầng 2 chạy xuống, K, O cầm điếu cày bằng tre chạy đến đập nhiều cái vào đầu, người T và anh Lê Đức I, K chửi và ghì cổ anh Lê Đức I xuống nền nhà, lấy chai bia ở két bia gần đó đập hai cái vào đầu anh Lê Đức I làm chai bia vỡ. U nghe thấy G bị đánh nên cầm theo 01 chai bia bằng thủy tinh lao vào mục đích đánh T thì bị nhóm bạn của G đánh che kín ngươì T nên U không đánh được. L tiếp tục lao vào dùng tay chân đấm, đá vào người T, T bị ngã ra đất, R dùng tay phải đấm 02 cái vào mặt T và dùng chân đá vào người T, Nguyễn Việt I lao vào dùng chân đạp vào đầu T, U dùng chân đạp vào mặt T 01 cái, L cầm chai bia đập vào đầu T và quay ra. Sau khi T bị nhóm của G đánh ngã ra sàn nhà thì vùng đứng dậy, Nguyễn Việt I chỉ tay vào mặt T chửi, lao vào dùng tay đấm thẳng vào mặt T 02 cái, khi đó G đang đứng sau Nguyễn Việt I thì bị T đưa tay lên đấm thẳng vào mặt G 01 cái, K sau khi đập chai bia vào đầu anh Lê Đức I, thấy T đánh G, đứng dậy lấy chai bia ở két, tay phải cầm chai bia tiếp tục đập chai bia vào đầu T, nam thanh niên tên Z lao vào dùng tay đấm vào mặt T, T ngã vào ghế ở phòng khách thì K tiếp tục cầm chai bia đập vào người T. Lúc này G cùng J can ngăn hai bên ra và đẩy anh T, anh Lê Đức I ra ngoài cửa quán hát, L khi đó đang cầm 01 chiếc ấm chuyên bằng sứ ném thẳng về phía đầu anh Lê Đức I nhưng không trúng, K và nam thanh niên tên Z tiếp tục lao vào đánh T thì G can ngăn đẩy ra ngoài rồi cả nhóm bỏ đi. Hậu quả T bị xây sát chấn thương vùng đầu và mu bàn tay trái được đưa đến bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Bình để cấp cứu điều trị vết thương từ ngày 01/10/2019 đến ngày 7/10/2019 thì ra viện. Anh Nguyễn Văn Q bị G đấm vào mặt nhưng không bị thương tích, anh Lê Đức I bị thương vùng đầu nhưng không đi viện để điều trị vết thương. Quán karaoke của anh H bị hư hỏng 18 chai bia nhãn hiệu Sài Gòn, 01 chai bia nhãn hiệu Tiger, 01 chai bia nhãn hiệu Tobrg, 01 ấm sứ màu trắng, 01 chén sứ màu trắng, 02 điếu cày bằng tre.

Tại hiện trường cơ quan điều tra thu giữ: Các mảnh vỡ vỏ chai bia nhãn hiệu Sài Gòn, Tiger, Tuborg với nhiều kích cỡ; Các mảnh vỡ điếu cày bằng tre nứa với nhiều kích cỡ; 02 nõ điếu cày bằng kim loại kích thước (6,5 x 3,5)cm; Các mảnh vỡ nhỏ của ấm, chén sứ màu trắng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 87 ngày 22/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân thành phố Ninh Bình kết luận18 chai bia nhãn hiệu Sài Gòn, 01 chai bia nhãn hiệu Tiger, 01 chai bia nhãn hiệu Tobrg, 01 ấm sứ màu trắng, 01 chén sứ màu trắng, 02 điếu cày bằng tre có tổng trị giá là 406.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 25/CT-VKS ngày 16/02/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình truy tố Trần Đức T, Nguyễn Đức G, Nguyễn Văn L, Lê Xuân O, Nguyễn Minh K, Nguyễn Văn U, Nguyễn Việt I, Phạm Quang R ra trước Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình để xét xử về tội Gây rối trật tự công cộng

 - Áp dụng điểm b, khoản 2, Điều 318 của Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Văn L, Nguyễn Minh K, Lê Xuân O, Nguyễn Văn U.

- Áp dụng khoản 1, điều 318 Bộ luật hình sự đối với Nguyễn Đức G, Nguyễn Việt I, Phạm Quang R; Trần Đức T Tại phiên toà, Kiểm sát viên tham gia phiên toà giữ nguyên quyết định như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: - Tuyên bố các bị cáo: Trần Đức T, Nguyễn Đức G, Nguyễn Văn L, Lê Xuân O, Nguyễn Minh K, Nguyễn Văn U, Nguyễn Việt I, Phạm Quang R phạm tội Gây rối trật tự công cộng.

- Áp dụng khoản 1 Điều 318; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt Trần Đức T từ 06 đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng. Thời hạn tù tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo Trần Đức T cho Uỷ ban nhân dân phường BĐ, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách; Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

- Áp dụng khoản 1 Điều 318; điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt Nguyễn Đức G từ 04 đến 05 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án. Được trừ 02 tháng 22 ngày tạm giam (từ ngày 02/11/2019 đến ngày 22/01/2020).

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn L, Lê Xuân O, Nguyễn Minh K. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L, Lê Xuân O, Nguyễn Minh K mỗi bị cáo từ 24 đến 25 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 02/11/2019

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt Nguyễn Văn U từ 24 đến 27 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 48 đến 50 tháng. Thời hạn tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo Nguyễn Văn U cho Uỷ ban nhân dân phường NS, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách; Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

- Áp dụng khoản 1 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguuyễn Việt I từ 06 đến 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 02/11/2019.

- Áp dung khoản 1 Điều 318; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt Phạm Quang R từ 06 đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng. Thời hạn tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo Phạm Quang R cho Uỷ ban nhân dân phường NK, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách; Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy các mảnh vỡ vỏ chai bia, các mảnh vỡ điếu, các mảnh vỡ ấm chén , 02 nõ điếu bằng kim loại.

- Về án phí hình sự sơ thẩm: buộc các bị cáo Trần Đức T, Nguyễn Đức G, Nguyễn Văn L, Lê Xuân O, Nguyễn Minh K, Nguyễn Văn U, Nguyễn Việt I, Phạm Quang R phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, các bị cáo không có tranh luận gì với luận tội của đại diện Viện kiểm sát và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Ninh Bình, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Ninh Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa các bị cáo Trần Đức T, Nguyễn Đức G, Nguyễn Văn L, Lê Xuân O, Nguyễn Minh K, Nguyễn Văn U, Nguyễn Việt I, Phạm Quang R nhận tội.

Các bị cáo Nguyễn Đức G, Nguyễn Văn L, Lê Xuân O, Nguyễn Minh K, Nguyễn Văn U, Nguyễn Việt I, Phạm Quang R đều khai nhận khoảng 20 giờ ngày 01/10/2019 các bị cáo uống bia tại tại phòng số 5 tầng 2 quán Karaoke PĐ thuộc phố TS, phường BĐ, thành phố Ninh Bình. Khoảng 22 giờ cùng ngày, Nguyễn Đức G, Nguyễn Văn L, Vũ Thị Thu A, Nguyễn Thị Ê, Hoàng Huy J nghỉ không hát nữa và ra đi về trước. Khi G cùng chị Ê đi ở hành lang tầng 1 từ trong quán hát ra ngoài phòng lễ tân thì gặp Trần Đức T đi từ ngoài vào trong, T có trêu chị Ê (bạn của G), do hành lang hẹp nên T và G va chạm với nhau. Sau đó, G và T xảy ra cãi chửi nhau, G đưa tay lên chặn ngang đường hành lang tầng một quán hát không cho T đi qua. T bực tức, đưa tay lên giật tay G, hất người G sang một bên. Sau đó, G quay lưng bỏ chạy, T đưa chân phải lên đạp về phía lưng G 01 phát nhưng không trúng, rồi T tiếp tục đuổi theo G được khoảng 3 mét và đưa chân lên đạp vào người G thì bị trượt chân ngã. Lúc này, Nguyễn Văn L đang đi vào hành lang tầng một quán hát thấy G đang bị T đuổi đánh. G nhìn thấy L thì đưa tay kéo L lại, L cùng G lao vào dùng chân tay đấm đá nhiều cái vào người T. Cùng lúc đó, J đang đứng tại hành lang quán hát thấy G và L đánh nhau với T nên chạy lên tầng hai của quán hát thì gặp Nguyễn Minh K, Phạm Văn C, Lê Xuân O, Phạm Quang R, Nguyễn Việt I, Nguyễn Văn U, Trần Văn V, Hà Thị Thu B và nam thanh niên tên Z, J nói “Anh G đang bị đánh ở dưới” sau đó cả nhóm chạy xuống. Lúc này K và O mỗi người cầm 01 chiếc điếu cày bằng tre, U cầm 01 chai bia chạy xuống hành lang quán hát. Cùng nhau xông vào đánh Trần Đức T, anh Lê Đức I và anh Nguyễn Văn Q. Khi thấy T, anh I bị bạn của mình đánh G đã can ngăn đẩy ra ngoài rồi cả nhóm bỏ đi.

Bị cáo Trần Đức T khai nhận khoảng 21 giờ ngày 01/10/2019 T cùng nhóm bạn của T đến quán karaoke PĐ hát, uống bia tại phòng số 1 tầng 1 đến khoảng 22 cùng ngày thì xảy ra xô xát giữa T và G và sự việc diễn ra như các bị cáo Nguyễn Đức G, Nguyễn Văn L, Lê Xuân O, Nguyễn Minh K, Nguyễn Văn U, Nguyễn Việt I, Phạm Quang R khai nhận. Nguyên nhân xảy ra xô xát là do hành lang của quán karaoke chật nên khi đi giữa bị cáo và G có va chạm vào nhau và bị cáo có trêu chọc bạn gái đi cùng với Nguyễn Đức G.

Hành vi các bị cáo thực hiện đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp biên bản sự việc, phù hợp với biên bản sao trích camera, phù hợp với lời khai người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên toà. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 22 giờ 03 phút ngày 01/10/2019, tại quán Karaoke PĐ thuộc phố TS, phường BĐ, thành phố Ninh Bình. Xuất phát từ việc Nguyễn Đức G và Trần Đức T va chạm với nhau tại quán karaoke PĐ dẫn đến việc Nguyễn Đức G, Nguyễn Văn L, Nguyễn Minh K, Phạm Quang R, Lê Xuân O, Nguyễn Việt I, Nguyễn Văn U và Trần Đức T xảy ra xô sát đánh nhau tại khu vực tiền sảnh và khu vực sân hè phía trước quán Karaoke PĐ. Hậu quả làm Trần Đức T, anh Lê Đức I bị thương tích nhưng từ chối giám định tỷ lệ tổn hại phần trăm sức khỏe đã gây náo loạn tại quán karaoke, gây tâm lý hoang mang lo sợ cho chủ quán, nhân viên phục vụ quán hát, những hộ dân sinh sống quanh khu vực làm mất an ninh trật tự trên địa bàn. Hành vi của các bị cáo đã cấu thành tội: “Gây rối trật tự công cộng”. Các bị cáo Nguyễn Văn L sử dụng tay chân, chai bia, ấm chuyên bằng sứ; Nguyễn Minh K sử dụng chân tay, điếu cày bằng tre, chai bia; Lê Xuân O sử dụng điếu cày bằng tre; Nguyễn Văn U sử dụng chân, chai bia là tình tiết tăng nặng đinh khung hình phạt, thuộc trường hợp “dùng hung khí” quy định tại điểm b, khoản 2, điều 318 Bộ luật hình sự. Các bị cáo Trần Đức T, Nguyễn Đức G, Nguyễn Việt I, Phạm Quang R dùng tay chân để xô sát đánh nhau. Tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1, Điều 318 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố các bị cáo về tội danh và khung hình phạt nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật Hành vi phạm tội của các bị cáo Trần Đức T, Nguyễn Đức G, Nguyễn Văn L, Lê Xuân O, Nguyễn Minh K, Nguyễn Văn U, Nguyễn Việt I, Phạm Quang R đã xâm phạm đến trật tự an toàn công cộng, đến các quy tắc, sinh hoạt, đi lại ở nơi công cộng được luật hình sự bảo vệ. Do vậy, cần buộc các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự và cần phải có hình phạt tương xứng với hành vi mà các bị cáo đã thực hiện, như vậy mới có tác dụng giáo dục cải tạo các bị cáo trở thành công dân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật; giữ gìn trật tự công cộng.

Đối chiếu với quy định của pháp luật hình sự thấy hành vi, tội danh và điều khoản áp dụng tại cáo trạng, lời luận tội, chứng cứ buộc tội các bị cáo của Kiểm sát viên trình bày tại phiên toà là có căn cứ.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo Nguyễn Văn L, Lê Xuân O, Nguyễn Minh K, Nguyễn Văn U ngoài tình tiết tăng nặng định khung hình phạt. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào khác. Các bị cáo Trần Đức T, Nguyễn Đức G, Nguyễn Việt I, Phạm Quang R không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo Trần Đức T, Nguyễn Đức G, Nguyễn Văn L, Lê Xuân O, Nguyễn Minh K, Nguyễn Văn U, Nguyễn Việt I, Phạm Quang R được hưởng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Bị cáo Nguyễn Văn U không có công ăn việc làm ốn định, hoàn cảnh kinh tế gặp nhiều khó khăn thường xuyên ốm đau nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Bị cáo Trần Đức T, Phạm Quang R phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Bị cáo Nguyễn Đức G khi tội phạm đang được thực hiện đã can ngăn các bị cáo khác không tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, nhờ người gọi xe taxi đưa Trần Đức T đi cấp cứu làm ngăn chặn, giảm bớt tác hại của tội phạm; sau khi sự việc xảy ra bị cáo đã tự nguyện bồi thường thương tích cho Trần Đức T đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm a, b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự .

Về nhân thân:

Khi phạm tội cả 8 bị cáo đều không có tiền án, tiền sự.

Các bị cáo Nguyễn Đức G, Nguyễn Văn L, Lê Xuân O, Nguyễn Việt I có nhân thân xấu. Bị cáo G nhiều lần bị xử lý hình sự về tội trộm cắp tài sản và tàng trữ hành cấm; Bị cáo Nguyễn Văn L, Nguyễn Việt I đã bị xử lý hành chính; Bị cáo Lê Xuân O 01 lần bị xử lý hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Trong vụ án có nhiều bị cáo tham gia, song không tính tổ chức mà đồng phạm tính chất giản đơn. Về vai trò của từng bị cáo trong vụ án cụ thể như sau: Trần Đức T có hành vi trêu chọc bạn của Nguyễn Đức G, là nguyên nhân chính làm phát sinh mâu thuẫn giữa T và G dẫn đến xô sát đánh nhau. Do đó, T có vai trò đầu vụ, G có vai trò sau T. Đối với Nguyễn Văn L, Lê Xuân O, Nguyễn Minh K, Nguyễn Văn U, Nguyễn Việt I và Phạm Quang R khi nghe tin G và T xô sát đánh nhau, đã cùng nhau dùng hung khí là điếu cày, chai bia và ấm chuyên của nhà hàng, đánh nhau với T và anh Lê Đức I gây mất trật tự trị an; về vai trò của L, O, K, U là ngang nhau. Phạm Quang R có vai trò sau cùng.

Về hình phạt: Cần áp dụng hình phạt tù đối với các bị cáo: Trần Đức T, Nguyễn Đức G, Nguyễn Văn L, Lê Xuân O, Nguyễn Minh K, Nguyễn Văn U, Nguyễn Việt I, Phạm Quang R.

- Đối với Trần Đức T, Nguyễn Văn U và Phạm Quang R có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng, ổn định, không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, cho các bị cáo cải tạo địa phương dưới sự giám sát của chính quyền địa phương cũng đủ điều kiện để các bị cáo tự cải tạo trở thành công dân tốt nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.

[3] Về trách nhiệm dân sự:

Qúa trình điều tra Nguyễn Đức G đã tự nguyện bồi thường cho Trần Đức T số tiền 100.000.000 đồng, T đã nhận đủ số tiền trên và không có yêu cầu đề nghị gì khác đối với G và những người đã gây thương tích cho mình. Nguyễn Đức G không yêu cầu các bị cáo phải thanh toán cho bị cáo tiền mà G đã bỏ ra bồi thường cho Trần Đức T. Do đó, về vấn đề dân sự đã giải quyết xong không đặt ra xem xét giải quyết;

Đối với thương tích của anh Lê Đức I do các đối tượng trong nhóm của G gây nên, do vết thương nhẹ nên anh I không đi điều trị tại bệnh viện đồng thời có đơn từ chối đi giám định thương tích và không yêu cầu những người đã gây thương tích cho anh I phải bồi thường. Do đó về trách nhiệm dân sự không đặt ra xem xét giải quyết.

Đối với anh Nguyễn Văn Q, quá trình can ngăn bị G đấm vào má nhưng không bị thương tích nên không có yêu cầu đề nghị gì.

Đối với Nguyễn Đức G khi nhóm bạn của mình lao vào đánh anh T, anh I đã có hành vi can ngăn khi đó anh T đưa tay đấm vào mặt anh G 01 cái, nhưng G không bị thương tích gì. Vì vậy trách nhiệm dân sự không đặt ra.

Đối với tài sản của anh Lê Minh H là chủ quán hát Karaoke PĐ gồm: 18 chai bia nhãn hiệu Sài Gòn, 01 chai bia nhãn hiệu Tiger, 01 chai bia nhãn hiệu Tuborg, 01 ấm bằng sứ, 01 chén bằng sứ, 02 chiếc điếu cày bằng tre bị hư hỏng trong quá trình các đối tượng xô sát đánh nhau có giá trị là 406.000 đồng. Anh H không yêu cầu các đối tượng phải đền bù thiệt hại đối với số tài sản trên. Vì vậy, không đặt ra xem xét giải quyết..

[4] Về xử lý vật chứng: Đối với các mảnh vỡ vỏ chai bia nhãn hiệu Sài Gòn, Tiger, Tuborg với nhiều kích cỡ; Các mảnh vỡ điếu cày bằng tre nứa với nhiều kích cỡ; 02 nõ điếu cày bằng kim loại kích thước (6,5 x 3,5)cm; Các mảnh vỡ nhỏ của ấm, chén sứ màu trắng thu tại hiện trường không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Các vấn đề khác:

Đối với thương tích của anh Lê Đức I do các đối tượng trong nhóm của G gây nên, do vết thương nhẹ nên anh I không đi điều trị tại bệnh viện đồng thời có đơn từ chối đi giám định thương tích. Do đó không có đủ căn cứ để xử lý hình sự về tội cố ý gây thương tích quy định tại điều 134 Bộ luật hình sự đối với những đối tượng đã gây ra thương tích cho anh Lê Đức I.

Đối với Nguyễn Đức G khi nhóm bạn của mình lao vào đánh anh T, anh I đã có hành vi can ngăn khi đó anh T đưa tay đấm vào mặt anh G 01 cái, nhưng G không bị thương tích gì nên không có đủ căn cứ để xử lý hình sự về tội cố ý gây thương tích quy định tại điều 134 Bộ luật hình sự đối với T.

Đối với thương tích của Trần Đức T do các đối tượng gây nên, sau khi điều trị đến ngày 7/10/2019 T ra viện, do sức khỏe đã ổn định nên T có đơn xin từ chối giám định tỷ lệ tổn hại phần trăm sức khỏe, do đó cơ quan điều tra không có đủ căn cứ để xử lý hình sự đối với những đối tượng đã gây thương tích cho T về tội “ Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điều 134 Bộ luật hình sự.

Đối với tài sản của anh Lê Minh H là chủ quán hát Karaoke PĐ tài sản thiệt hại không lớn do đó không có căn cứ để xử lý các đối tượng về tội Cố ý làm hư hỏng tài sản theo điều 178 Bộ luật hình sự.

Qúa trình điều tra xác định anh Trần Văn V, anh Phạm Văn C, anh Hoàng Huy J, chị Hà Thị Thu B, chị Vũ Thị Thu A, chị Nguyễn Thị Ê là những người đi cùng Nguyễn Đức G đến quán karaoke PĐ, khi xảy ra xô xát đánh nhau tại quán karaoke những người này có hành động can ngăn, không cho 02 nhóm cãi chửi nhau, đuổi đánh nhau, không tham gia vào việc xô xát đuổi đánh nhau gây rối trật tự công cộng nên không có căn cứ để xử lý về hành vi gây rối trật tự công cộng. Cơ quan Cảnh sát điều tra không đặt vấn đề xử lý đối với những người này.

Đối với anh Lê Đức I, anh Nguyễn Văn Q khi thấy anh T bị anh G cùng nhóm bạn đuổi đánh đã vào căn ngăn. Không có hành vi chửi bới đánh lại anh G cùng nhóm bạn G nên không có đủ căn cứ để xử lý theo quy định.

Đối với nam thanh niên tên Z là bạn của Nguyễn Đức G có hành vi dùng tay, chân, đấm đá vào người T. Quá trình điều tra G cùng nhóm của mình khai báo không biết họ tên đệm, năm sinh, địa chỉ cụ thể, không có số điện thoại của Z, cơ quan điều tra chưa xác định được nhân thân lai lịch của Z nên chưa có căn cứ để xử lý. Do đó cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình tách riêng phần tài liệu liên quan đến nam thanh niên tên Z để tiếp tục xác minh, nếu có căn cứ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc các bị cáo Trần Đức T, Nguyễn Đức G, Nguyễn Văn L, Lê Xuân O, Nguyễn Minh K, Nguyễn Văn U, Nguyễn Việt I, Phạm Quang R phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[7] Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ:

 - Khoản 1 Điều 318; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Trần Đức T, Phạm Quang R;

- Khoản 1 Điều 318; điểm a, b, s khoản 1 Điều 51của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Đức G;

- Điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn L, Lê Xuân O, Nguyễn Minh K;

- Điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn U.

- Khoản 1 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Việt I.

Tuyên bố các bị cáo Trần Đức T, Nguyễn Đức G, Nguyễn Văn L, Lê Xuân O, Nguyễn Minh K, Nguyễn Văn U, Nguyễn Việt I, Phạm Quang R phạm tội Gây rối trật tự công cộng.

Xử phạt:

1.1. Bị cáo Trần Đức T 7 (Bảy) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 tháng tính từ ngày tuyên án (29/4/2020).

Bị cáo Trần Đức T phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự. Giao bị cáo Trần Đức T cho Uỷ ban nhân dân phường BĐ, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách; Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì việc giám sát, giáo dục thực hiện theo quy định tại khoản 1 điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu Trần Đức T lại cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo Trần Đức T phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo Trần Đức T phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

1.2. Bị cáo Nguyễn Đức G 04 (Bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án. Được trừ 02(Hai) tháng 22 (Hai mươi hai) ngày tạm giam (từ ngày 02/11/2019 đến ngày 22/01/2020).

1.3. Bị cáo Nguyễn Văn L 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 02/11/2019.

1.4. Bị cáo Lê Xuân O 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 02/11/2019

1.5. Bị cáo Nguyễn Minh K 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 02/11/2019

1.6. Bị cáo Nguyễn Văn U 24 (Hai mươi bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời hạn gian thử thách 48 tháng tính từ ngày tuyên án (29/4/2020).

Bị cáo Nguyễn Văn U phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự. Giao bị cáo Nguyễn Văn U cho Uỷ ban nhân dân phường NS, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách; Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì việc giám sát, giáo dục thực hiện theo quy định tại khoản 1 điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu Nguyễn Văn U lại cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo Nguyễn Văn U phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo Nguyễn Văn U phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

1.7. Bị cáo Nguyễn Việt I 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 02/11/2019.

1.8. Bị cáo Phạm Quang R 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời hạn gian thử thách 12 tháng tính từ ngày tuyên án (29/4/2020).

Bị cáo Phạm Quang R phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự. Giao bị cáo Phạm Quang R cho Uỷ ban nhân dân phường NK, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách; Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì việc giám sát, giáo dục thực hiện theo quy định tại khoản 1 điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu Phạm Quang R lại cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo Phạm Quang R phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo Phạm Quang R phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy các mảnh vỡ vỏ chai bia nhãn hiệu Sài Gòn, Tiger, Tuborg với nhiều kích cỡ; các mảnh vỡ điếu cày bằng tre nứa với nhiều kích cỡ; 02 nõ điếu cày bằng kim loại kích thước( 6,5x3,5) cm; Các mảnh vỡ nhỏ của ấm, chén sứ màu trắng.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 05/3/2020).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc các bị cáo Trần Đức T, Nguyễn Đức G, Nguyễn Văn L, Lê Xuân O, Nguyễn Minh K, Nguyễn Văn U, Nguyễn Việt I, Phạm Quang R mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án (29/4/2020); người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2020/HS-ST ngày 29/04/2020 về tội gây rối trật tự công cộng

Số hiệu:44/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về