Bản án 44/2020/HSST ngày 27/04/2020 về tội buôn bán hàng cấm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIỄN CHÂU - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 44/2020/HSST NGÀY 27/04/2020 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 27 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 49/2020/TLST - HS ngày 01 tháng 4 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/QĐXXST - HS ngày 16 tháng 4 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Hồ Sỹ H (tên gọi khác: không); Giới tính: Nam; Sinh ngày 24 tháng 9 năm 2002; tại xã T, huyện C, tỉnh Nghệ An; Trú quán: xóm 9, xã T, huyện C, tỉnh Nghệ An; Trình độ học vấn: Lớp 11/12; Nghề nghiệp: học sinh; Con ông Hồ Sỹ S , sinh năm 1975 và bà Bùi Thị H , sinh năm 1975; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/12/2019 đến ngày 07/01/2020 cho bảo lĩnh. Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Phạm Văn T (tên gọi khác: không); Giới tính: Nam; Sinh ngày 02 tháng 6 năm 1987; tại xã T, huyện C, tỉnh Nghệ An; Trú quán: xóm 9, xã T, huyện C, tỉnh Nghệ An; Trình độ học vấn: Lớp 6/12; Nghề nghiệp: lao động tự do; Con ông Phạm Văn L (chết) và bà Nguyễn Thị Nh , sinh năm 1964; Vợ: Hồ Thị Th , sinh năm 1989; Con: có 03 con, lớn nhất sinh năm 2011, nhỏ nhất sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/12/2019 đến ngày 26/02/2020 cho bảo lĩnh. Có mặt tại phiên tòa.

*. Người đại diện hợp pháp cho bị cáo H : ông Hồ Sỹ S , sinh năm 1975; Trú tại: xóm 9, xã T, huyện C, tỉnh Nghệ An (là bố đẻ bị cáo).

*. Người bào chữa cho bị cáo H : ông Lê Công Th – Trợ giúp viên Pháp lý. Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước – Tỉnh Nghệ An.

*. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Hồ Thị Th , sinh năm 2000; Trú tại: xóm 9, T, C, Nghệ An (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

- Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Vào khoảng 08 giờ ngày 28/12/2009, Hồ Sỹ H nhận được một cuộc điện thoại của một người đàn ông không quen biết gọi đến hỏi “Anh là bạn Ng đây, nghe Ngọc nói em bán pháo phải không?” H trả lời “Không, nhưng em biết chỗ lấy pháo được để em hỏi cái đã, có gì em trả lời anh sau”, người đó nói “Khi nào em hỏi được lấy cho anh năm băng loại pháo 36 quả” thì H trả lời “Để em hỏi cái đã”.

Đến khoảng 19 giờ ngày 28/12/2019, Hồ Sỹ H gọi điện cho Phạm Văn T hỏi “Anh có pháo không”, T trả lời “Để anh hỏi bạn anh cái đã”. Sau đó T gọi điện thoại hỏi T (T biết khi đi đánh giầy tại thị trấn C): “Anh có pháo không?” T trả lời “Có”, T hỏi tiếp “bán cho em năm hộp pháo loại 36 quả” đồng thời T hỏi giá bao nhiêu một hộp pháo thì T trả lời “Giá 750.000đồng/01 hộp”. T đồng ý rồi hai bên thống nhất thời gian địa điểm giao pháo.

Đến khoảng 08 giờ ngày 29/12/2019, T gọi điện cho H nói “Có pháo rồi, nói nó đưa tiền cho nó lấy pháo và giá là 750.000đồng/01 hộp pháo loại 36 quả” và H đồng ý. Khoảng 15 phút sau, người đàn ông đặt mua pháo gọi điện cho H hỏi “Pháo sao rồi em”, H trả lời “Có rồi” và hỏi “Anh đang ở đâu?‟ thì người đàn ông trả lời “Anh đang ở P, giờ em lên đường N2, anh xuống đó ta gặp nhau”, H điều khiển xe máy điện biển kiểm soát 37MĐ-755.74 đến nhà Lê Văn Th , sinh năm 2002, trú tại xóm 9, xã T, huyện C, H rủ Th “Đi lên đây với tao tý”. Sau đó, H chở Th đi đến đầu đường N2 thuộc xã A, huyện C thì H nói Th xuống xe đứng chờ ở đó, còn H đi lên phí trên một đoạn thì gặp một người đàn ông, H đến và hỏi „anh có phải là người gọi điện mua pháo không”, người đàn ông trả lời “Đúng” và đồng thời hỏi H “Giá bao nhiều tiền một băng pháo 36 quả”, H trả lời “Chín trăm năm mươi nghìn đồng một băng”: người đàn ông đồng ý và nói “Giờ anh đưa hai triệu đồng cho em trước, khi nào lấy pháo anh đưa cả luôn”. Người đàn ông lấy ra 2.000.000đồng đưa cho H , H cầm lấy tiền rồi quay lại đón Th về nhà, còn H đến đưa cho T 3.750.000đồng và nói “anh lấy hộ em cái, tối nay em lấy”. Sau đó T đi ra thị trấn C, huyện C mua pháo của T (không rõ họ và nơi cư trú) với giá 3.750.000đồng mang về nhà cất dấu.

Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, H điện thoại hẹn người đàn ông mua pháo gặp nhau tại khu vực cống “Ông Cường” thuộc xóm 10, xã T, huyện C để giao pháo và tiền còn thiếu. Sau đo H điều khiển xe máy điện đến nhà T , T đưa cho H túi ny lông chứa 05 hộp pháo. H để số pháo lên giá để chân phía trước của xe rồi đi đến nhà rủ Th đi cùng, Th đồng ý và ngồi lên xe H chở đi đến điểm hẹn. Khi đi đến cống “ông Cường” H nói Th xuống xe chờ còn H đi đến khu vực đã hẹn để giao pháo cho người đàn ông thì bị tổ công tác của Công an huyện C phát hiện, bắt quả tang thu giữ của H 01 bao ny lông màu đen, bên trong chứa 05 (Năm) hộp pháo loại 36 quả. Tổ công tác dẫn giải Hồ Sỹ H cùng tang vật về trụ sở Công an huyện C lập biên bản, bắt giữ người có hành vi phạm pháp quả tang.

Ngày 30/12/2019 Phạm Văn T đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C, tỉnh Nghệ An đầu thú về hành vi phạm tội của mình.

Vật chứng vụ án:

- 05 (Năm) khối hình hộp chữ nhật có đặc điểm giống nhau, kích thước (14x14x10)cm, có tổng khối lượng là 6,07kg (Sáu phẩy không bảy ki lô gam). Hội đồng bóc mở niêm phong đã lấy 01 (Một) khối hình hộp chữ nhật có khối lượng 1,21kg (Một phẩy hai mươi mốt ki lô gam), gửi đi giám định. Số vật chứng còn lại gồm 04 (Bốn) khối hình hộp chữ nhật, có tổng khối lượng là 4,8kg (Bốn phẩy tám mươi sáu ki lô gam) - 01 (một) xe máy điện biển kiểm soát 37MĐ-755.74, đã qua sử dụng, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại chiếc xe máy điện cho chủ sở hữu chị Hồ Thị Th , sinh năm 2000, trú tại: xóm 9, xã T, huyện C, Nghệ An Tại bản kết luận giám định số 67/KL – PC09 (CN) ngày 03/01/2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: “Mẫu vật thu giữ của Hồ Sỹ H gửi tới giám định là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ, có chứa thuốc pháo và khi bị kích thích hoặc đốt có gây tiếng nổ”.

Tại bản cáo trạng số 46/VKS-HS ngày 11/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu đã truy tố các bị cáo Hồ Sỹ H , Phạm Văn T về tội: “Buôn bán hàng cấm” theo điểm c khoản 1 điều 190 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa, giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 190, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 91; Điều 54; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt: Hồ Sỹ H 09 tháng - 12 tháng tù, về tội “Buôn bán hàng cấm”, nhưng cho hưởng án treo, thử thách từ 18 tháng - 24 tháng.

Căn cứ vào điểm c, khoản 1 Điều 190, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt: Phạm Văn T từ 12 tháng – 15 tháng tù, về tội “ Buôn bán hàng cấm”, nhưng cho hưởng án treo, thử thách từ 24 tháng - 30 tháng.

Các bị cáo không có ý kiến gì về tội danh, chỉ xin hội đồng xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Người bào chữa cho bị cáo Hồ Sỹ H thống nhất với tội danh mà Viện kiểm sát truy tố đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, nhận thức về pháp luật còn hạn chế.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận:

Vào khoảng 19 giờ ngày 29/12/2019, tại khu vực cống “ông C” thuộc xóm 10, xã T, huyện C, tỉnh Nghệ An; Hồ Sỹ H cất giữ 6,07kg (Sáu phẩy không bảy ki lô gam) pháo nổ để bán kiếm lời thì bị tổ công tác Công an huyện C phát hiện và bát quả tang. Số pháo này Hồ Sỹ H mua của Phạm Văn T với giá 3.750.000đồng.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với các chứng cứ tài liệu đã thu thập được trong quá trình điều tra có tại hồ sơ đã được xét hỏi và tranh tụng công khai tại phiên tòa. Bị cáo Phạm Văn T là người mua hộ pháo cho Hồ Sỹ H nên phạm tội với vai trò giúp sức. Hành vi của các bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Buôn bán hàng cấm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự như Cáo trạng truy tố và lời luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện C tại phiên tòa là có căn cứ pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án: Vụ án có tính chất nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các loại hàng hóa, gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự an toàn công cộng. Pháo nổ là loại hàng hóa mà Nhà nước không cho phép lưu thông trên thị trường, không cho phép tàng trữ, sản xuất, buôn bán, vận chuyển, sử dụng. Vì từ pháo nổ đã gây ra nhiều vụ hỏa hoạn nghiệm trọng, gây thiệt hại đến tài sản, tính mạng con người. Bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, là người có năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý. Vì vậy cần phải lên một mức án nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, để vừa cải tạo, giáo dục riêng bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo Phạm Văn T có tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội ra đầu thú nên cần áp dụng điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Hồ Sỹ H có tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, khi phạm tội dưới 18 tuổi, nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phải đảm bảo lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sủa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Bị cáo phạm tội khi dưới 18 tuổi, vì vậy cần áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự xử phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là phù hợp với quy định của pháp luật, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật Nhà nước ta Bị cáo H, T có nơi cư trú rõ ràng, nên áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự xử cho bị cáo hưởng án treo là phù hợp, cũng đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội. Giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát quản lý bị cáo, gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung đối với các bị cáo

[6] Về vật chứng: Pháo là loại hàng hóa do Nhà nước quản lý nghiêm cấm mọi hành vi Tàng trữ, vận chuyển, buôn bán, sử dụng cho nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Về án phí hình sự: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 190, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 91; Điều 54; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt: Hồ Sỹ H 09 ( Chín) tháng tù, về tội “Buôn bán hàng cấm”, nhưng cho hưởng án treo, thử thách 18 tháng. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 27/4/2020.

2. Căn cứ vào điểm c, khoản 1 Điều 190, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt: Phạm Văn T 15 ( Mười lăm) tháng tù, về tội “ Buôn bán hàng cấm”, nhưng cho hưởng án treo, thử thách 30 tháng. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 27/4/2020.

Giao bị cáo Hồ Sỹ H , Phạm Văn T cho UBND xã T, huyện C, tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục đối với bị cáo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc phải chấp hành hình phạt tù.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu và tiêu hủy:

04 hộp pháo loại 36 quả, có trọng lượng 4,86 kg (Bốn phẩy tám mươi sáu ki lô gam), sau khi trừ mẫu giám định, không còn giá trị sử dụng.

(Các vật chứng trên hiện đang do cơ quan điều tra Công an huyện C quản lý).

4. Về án phí: Buộc Hồ Sỹ H , Phạm Văn T mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo, người bào chữa cho bị cáo Huyền có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Đi với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2020/HSST ngày 27/04/2020 về tội buôn bán hàng cấm

Số hiệu:44/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diễn Châu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về