TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH HẬU GIANG
BẢN ÁN 44/2020/HS-ST NGÀY 23/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 23 tháng 12 năm 2020, tại Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 58/2020/TLST - HS ngày 04 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2020/QĐXXST – HS ngày 07 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Đặng Văn M, Sinh năm 1994 tại Hậu Giang; Nơi cư trú: Ấp P, xã Ph, huyện C, tỉnh Hậu Giang; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 02/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;
Con ông Đặng Văn H và bà Hồ Thị K; Bị cáo có vợ là Phan Thị Thúy H và có 01 con chung Đặng Hoàng Gia B, sinh năm 2019.
Tiền án: Không Tiền sự:
Ngày 15/6/2020, Đặng Văn M thực hiện hành vi trộm tài sản, Công an phường H, quận C, thành phố Cần Thơ đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0004316/QĐ-XPHC, ngày 17/9/2020.
Ngày 04/9/2020 và ngày 12/9/2020, Đặng Văn M thực hiện hành vi trộm tài sản, Công an phường P, quận C, thành phố Cần Thơ đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0004417/QĐ-XPHC, ngày 02/10/2020.
Bị cáo bị bắt tam giữ ngày 17/9/2020 và chuyển sang tạm giam từ ngày 20/9/2020 cho đến nay (có mặt tại phiên tòa).
Người bị hại:
1/ Ông Trần Hữu C (vắng mặt tại Tòa) Nơi cư trú: Ấp P, xã Ph, huyện C, tỉnh Hậu Giang.
2/ Anh Nguyễn Văn  (vắng mặt) Nơi cư trú: Ấp P, xã Ph, huyện C, tỉnh Hậu Giang.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1/ Chị Phan Thị Thúy H (Có mặt tại Tòa) Nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Hậu Giang.
2/Anh Trần Hoàng P (Vắng mặt tại Tòa) Nơi cư trú: Ấp P, xã Ph, huyện C, tỉnh Hậu Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 09 giờ, ngày 06/6/2020, Đặng Văn M khi qua sông tại bến phà H thuộc ấp P, xã Ph, huyện C, tỉnh Hậu Giang thì phát hiện xe mô tô hiệu Wave S màu đen - xám, biển số 95F6-4501 của ông Trần Hữu C đang dựng trước cửa nhà của ông Võ Thành L thuộc ấp P, trên xe có gắn sẵn chìa khoá, không người trông giữ nên M mở chìa khoá, khởi động xe rồi điều khiển về nhà vợ thuộc ấp T, xã Tân Ph, huyện C và sử dụng làm phương tiện di chuyển. Đến ngày 15/6/2020, Đặng Văn M điều khiển xe mô tô biển số 95F6-4501 chở Trần Chí N đi trộm tài sản tại phường H, quận C, thành phố Cần Thơ bị bắt quả tang.
Ngoài ra, vào khoảng 12 giờ, ngày 22/6/2020 Đặng Văn M thuê xe ôm để về nhà cha mẹ ruột thuộc ấp P, khi đến cầu C, thuộc ấp Ph, xã Ph, huyện C, tỉnh Hậu Giang thì Mxuống xe đi bộ vào lộ nông thôn và phát hiện một xe mô tô hiệu Wave S màu đen - xám, biển số 95G1- 005.25, trên xe treo một nón bảo hiểm (loại nón kết) màu trắng – xám của anh Nguyễn Văn A đang dựng gần bờ sông có gắn chìa khoá, không người trông giữ nên lấy xe và điều khiển về nhà vợ thuộc ấp T. Đến ngày 18/7/2020, Đặng Văn M điều khiển xe đến nhà Trần Hoàng P chơi thì bị Công an xã Ph phát hiện, M bỏ chạy để xe mô tô biển số 95G1- 005.25 lại nhà của P và bị thu giữ.
Căn cứ kết luận định giá tài sản số 25/KLĐG, ngày 18/9/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình kết luận xe mô tô nhãn hiệu Honda (loại Wave S), màu đen-xám, số khung 09007Y870808, số máy HC 09E6691905, biển kiểm soát 95F6-4501 (đã qua sử dụng), giá trị là 6.800.000 đồng (Sáu triệu tám trăm nghìn đồng) Căn cứ kết luận định giá tài sản số 26/KLĐG, ngày 13/10/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự kết luận xe mô tô nhãn hiệu Honda (loại Wave S), màu đen-xám, biển kiểm soát 95G1- 005.25; 01 mũ bảo hiểm (loại nón kết), màu trắng - xám (đã qua sử dụng), giá trị là 8.065.100 đồng (Tám triệu không trăm sáu mươi lăm nghìn đồng) Tại Cáo trạng số 50/CT- VKS – HCT ngày 30/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành đã truy tố bị cáo Đặng Văn M về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015.
Về phía bị hại không yêu cầu thêm về trách nhiệm dân sự. Về trách nhiệm hình sự, đề nghị giải quyết theo quy đinh của pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố. Lời nói sau cùng của bị cáo là xin được Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo Đặng Văn M về tội “Trộm cắp tài sản”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù. Thời phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt 17/9/2020.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay, các bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Hoàng P vắng mặt, xét thấy việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự để xét xử vụ án theo thủ tục chung.
[2] Xét tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến, khiếu nại gì.
[3] Xét về hành vi phạm tội: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản Cáo trạng đã truy tố, lời khai của bị cáo là thống nhất, phù hợp và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án từ đó xác định vào ngày 06/6/2020 trên đường từ nhà vợ về xã Ph, bị cáo phát hiện xe mô tô hiệu Wave S màu đen - xám, biển số 95F6-4501 của ông Trần Hữu C đang dựng trước cửa nhà của ông Võ Thành L trên xe có gắn sẵn chìa khoá, không người trông giữ nên M mở chìa khoá, khởi động xe và chạy về nhà vợ và sử dụng làm phương tiện đi lại. Đến ngày 22/6/2020 bị cáo đi tiếp tục từ nhà vợ về xã Ph, khi bị cáo đi bộ vào lộ nông thôn thì phát hiện một xe mô tô hiệu Wave S màu đen - xám, biển số 95G1- 005.25, trên xe treo một nón bảo hiểm (loại nón kết), màu trắng – xám của anh Nguyễn Văn A đang dựng gần bờ sông có gắn chìa khoá, không người trông giữ, bị cáo lấy xe của anh A chạy về nhà vợ và tiếp tục sử dụng xe làm phương tiện di chuyển. Như vậy khẳng định hành vi lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác không người trông giữ tài sản bị cáo đã lén lút chiếm đoạt tài sản của các bị hại Trần Hữu C và nguyễn Văn A. Căn cứ kết luận định giá, giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt của ông Trần Hữu C là 01 xe máy trị giá 6.800.000 đồng; giá trị xe máy và 01 nón bảo hiểm bị cáo chiếm đoạt của Nguyễn Văn A là 8.065.100 đồng đều đủ định lượng theo quy định. Do đó, cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng pháp luật.
[4] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây hoang mang, lo lắng và bức xúc trong quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự, trị an trên địa bàn. Tại thời điểm phạm tội, bị cáo đã trưởng thành nhận thức rõ hành vi của bi cáo là vi phạm pháp luật nhưng do bản thân lười lao động, bị cáo cố ý thực hiện hành vi phạm tội mục đích làm phương tiện đi lại đồng thời làm phương tiện tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản để có tiền chi xài cho bản thân trong đó có chi xài vào việc sử dụng trái phép chất ma túy.
[5] Xét nhân thân của bị cáo: Bị cáo có nhân thân rất xấu, ngày 30/12/2013, bị cáo bị chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C ra quyết định số 5382/QĐ – UBND áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Sau khi trở về, bị cáo không ăn năn, quyết tâm cai nghiện mà tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy. Mặt khác, ngoài thực hiện hành vi phạm tội vào ngày 06/6/2020 và ngày 22/6/2020 thì bị cáo còn thực hiện trộm cắp tài sản nhiều lần, cụ thể vào ngày 15/6/2020; ngày 04/9/2020; ngày 12/9/2020 và đã bị xử phạt vi phạm hành chính.
[6] Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tương ứng tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó, cần áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trên cho bị cáo.
[7] Xét về tình tiết tăng nặng: Thấy rằng ngày 06/6/2020 và ngày 22/6/2020 bị cáo đã hai lần thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của các bị hại, mỗi lần giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt đều đủ định lượng theo quy định của pháp luật nên Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội 02 lần trở lên theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự là phù hợp.
[8] Về hình phạt: Từ những căn cứ nêu trên xét thấy chỉ trong thời gian ngắn ngoài thực hiện 02 lần phạm tội, bị cáo còn 03 thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Tất cả các hành vi của bị cáo đều là trộm cắp tài sản, chứng tỏ bị cáo đã có chứng nào tật nấy, khinh thường pháp luật nên cần xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo có điều kiện cải tạo, tu dưỡng, rèn luyện bản thân đồng thời để răn đe và phòng ngừa loại tội phạm xâm phạm về sở hữu tài sản gia tăng trong thời gian cuối năm.
[9] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét.
[10] Xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành đã ra quyết định xử lý vật chứng trao trả cho chủ sở hữu ông Trần Hữu C xe mô tô biển kiểm soát 95F6 – 4501 và trả lại cho chủ sở hữu anh Nguyễn Văn A xe mô tô biển kiểm soát 95G1 -005.25. Riêng nón bảo hiểm không thu hồi được nên không đề cập xem xét.
[11] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Trần Hoàng P, chị Nguyễn Thị Thúy H không biết hành vi phạm tội của bị cáo và không liên quan đến tài sản bị cáo phạm tội nên không xử lý là phù hợp.
[12] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) Tuyên bố: Bị cáo Đặng Văn M phạm tội “Trộm cắp tài sản” 1. Xử phạt: bị cáo Đặng Văn M 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày 17/9/2020.
2. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường nên không đề cập xem xét.
3.Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định án phí và lệ phí Tòa án:
Buộc bị cáo Đặng Văn M phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (có mặt tại Tòa) có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại tòa có quyền kháng cáo trọng hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
5. Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 44/2020/HS-ST ngày 23/12/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 44/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Hậu Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về